VeDIAL: Tham luận của Phạm Hạnh Minh gửi tới VED 2014. Tải về bản PDF tại đây.

GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM

HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG

(TRÊN CƠ SỞ XEM XÉT XU HƯỚNG QUỐC TẾ HÓA ĐẠI HỌC THẾ GIỚI)

PHẠM HẠNH MINH

Tóm lược (Abstract)

Xu hướng toàn cầu hóa giáo dục đang diễn ra mạnh mẽ, với các chính sách và cách thức thu hút các trường đại học nước ngoài cũng như phương pháp “xuất khẩu” giáo dục đại học khác nhau. Đặc biệt khu vực châu Á đang dần trở thành trung tâm cho nhiều đại học phương Tây mở chi nhánh/phân hiệu với nhiều biện pháp hỗ trợ khuyến khích của các chính phủ. Ở Việt Nam, chương trình phát triển các đại học xuất sắc theo mô hình mới được đưa ra từ năm 2006 với nhiều tham vọng và đang được đầu tư các nguồn lực đáng kể. Tuy nhiên cách tổ chức triển khai chưa hợp lý, nhiều khả năng không đạt được kết quả đặt ra ban đầu, lợi ích đạt được là có nhưng không tương xứng với chi phí rất lớn phải bỏ ra, đặc biệt là các khoản vay ODA khoảng 700 triệu USD chỉ để xây dựng cơ sở vật chất ban đầu cho các trường này. Bên cạnh đó, có một số trường hợp đại học nước ngoài đang phát triển tương đối thành công ở Việt Nam là RMIT và Fulbright University Vietnam. Trên cơ sở phân tích các thành công, thất bại, khó khăn, thách thức của giáo dục đại học có yếu tố nước ngoài, tác giả đưa ra một số khuyến nghị về chính sách, bao gồm việc cắt giảm và tái cấu trúc các dự án đại học mô hình mới đang triển khai.

 

1. Quá trình quốc tế hóa đại học thế giới

Cùng với xu hướng toàn cầu hóa sâu rộng đang diễn ra, giáo dục đại học cũng đang trong quá trình quốc tế hóa mạnh mẽ trong 30 năm vừa qua. Quá trình này thể hiện bằng việc số lượng sinh viên tham gia các chương trình đào tạo tổ chức ở một quốc gia nhưng có sự tham gia của một đại học từ quốc gia khác, ở hình thức và nội dung của các chương trình học với sự hỗ trợ ngày càng tăng của công nghệ thông tin và truyền thông (ICT). Đây là quá trình tất yếu xét từ góc độ nhu cầu (demand) có nền giáo dục đại học chất lượng cao của quốc gia tiếp nhận và từ góc độ cung cấp (supply): động lực mạnh mẽ vươn ra quốc tế của các trường đại học, kể cả các đại học hàng đầu thế giới (Knight, J. & De Wit, H., 1999).

1.1 Từ góc độ các nước thu hút đại học nước ngoài
Nhật Bản

Khi nền kinh tế Nhật Bản đạt đỉnh cao về tốc độ tăng trưởng vào những năm 1980 trước khi gặp các vấn đề bong bóng tài sản, các trường đại học phương Tây đã đổ xô vào Nhật Bản để đáp ứng nhu cầu cao của một thị trường lớn và có khả năng tài chính mạnh. Đến năm 1989, đã có hơn 30 trường đại học nước ngoài, chủ yếu là từ Mỹ đăng ký hoạt động ở Nhật Bản (Ayako Mie, 2013). Tuy nhiên phần lớn các trường này đã gặp khó khăn và phải đóng cửa, các nguyên nhân chính là:

Khung pháp lý không rõ ràng và không khuyến khích các trường nước ngoài (vấn đề thuế, vấn đề xin visa khó khăn cho sinh viên nước ngoài vào học ở các đại học quốc tế tại Nhật Bản, sinh viên không được hưởng các ưu đãi như giảm chi phí đi lại/tiền điện thoại giống sinh viên các trường của Nhật)
Không cạnh tranh được với các đại học của Nhật Bản (một số trường có thứ hạng cao ở châu Á và trên thế giới) về mức độ chấp nhận của thị trường lao động (các công ty và cơ quan nhà nước Nhật Bản không đánh giá cao bằng của các trường nước ngoài), về mức học phí cao hơn
Sinh viên Nhật Bản chưa quen với cách truyền đạt và hướng dẫn của các giáo sư Mỹ (về tiếng Anh, về sự chủ động thấp hơn của sinh viên Nhật)

Đến năm 2004, sau nhiều vòng đàm phán giữa Chính phủ Mỹ và Nhật, một số trường của Mỹ được công nhận chính thức và đối xử như các trường đại học của Nhật Bản. Lúc đó chỉ còn 3 cơ sở đại học của Mỹ ở Nhật. Các trường Mỹ như cơ sở lớn nhất là Temple University Japan (TUJ) lúc này đã có thể chuyển đổi tín chỉ tương đương sang các trường Nhật. Tuy nhiên TUJ vẫn phải trả thuế thu nhập doanh nghiệp dù họ là trường công lập hoạt động theo mô hình phi lợi nhuận, sinh viên của TUJ vẫn phải nộp thuế tiêu thụ là 5% tính trên học phí. TUJ cũng không được hưởng các hỗ trợ và ưu đãi tài chính như các trường của Nhật.

Từ năm 2013, với việc Thủ tướng mới được bầu Abe thực hiện chính sách kinh tế mới với giải quy (deregulation) là “mũi tên thứ ba” của Abenomics, TUJ hy vọng sẽ được hưởng các chính sách thuế và ưu đãi giống như các đại học Nhật Bản (Ayako Mie, 2013).

Ấn Độ

Mặc dù có một thị trường giáo dục đại học rất lớn với nhu cầu rất cao cho giáo dục đại học (mục tiêu tăng tỷ lệ học sinh vào đại học lên 30% vào năm 2020 từ 11% năm 2011), Ấn Độ là nước khá chậm trong việc thu hút đại học nước ngoài (Amol Sharma, 2011). Các rào cản pháp lý cho đại học nước ngoài ở Ấn Độ là rất khó khăn và không rõ ràng. Dù Dự luật về đại học nước ngoài được soạn thạo xong từ 2010, đến giữa năm 2013, sau quá trình tranh cãi kéo dài với nhiều lần trì hoãn, Quốc hội Ấn Độ mới thông qua dự luật này, đưa ra quy định rõ ràng cho các trường đại học nước ngoài muốn vào Ấn Độ như sau:

Đại học nước ngoài phải nằm trong Top 400 của thế giới, hồ sơ mở trường phải được đại sứ quán nước đó ở Ấn Độ xác nhận
Chi nhánh/phân hiệu mở ở Ấn Độ phải được thành lập dưới hình thức phi lợi nhuận, với khoản đóng góp ban đầu dưới hình thức endowment ít nhất là 4,2 triệu USD cho một phân hiệu (campus). Số phân hiệu tối đa được mở là 4
Doanh thu/tiền mặt có được do hoạt động của phân hiệu không được chuyển ra nước ngoài, phải để lại để tái đầu tư, tăng cường hoạt động của chính phân hiệu đó.

Theo đánh giá của Jason Lane and Kevin Kinser (2013), các điều kiện đặt ra nói trên làm cho việc thu hút các đại học nước ngoài tới Ấn Độ sẽ khó khăn. Thứ nhất là việc quy định thứ hạng trong Top 400 làm hạn chế rất nhiều trường. Thực tế trong số 160 trường trên thế giới đã mở campus ở nước ngoài, chỉ có khoảng 30 trường thuộc nhóm có thứ hạng cao, và khó có khả năng 30 trường này sẽ tiếp tục mở thêm campus ở Ấn Độ. Thứ hai là quy định về tài chính như trên là quá ngặt nghèo, trong khi các nước khác còn đưa ra hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, về tài chính (cho vay), và các hỗ trợ khác. Nếu không có hỗ trợ này thì các quốc gia thường có khung pháp lý linh hoạt để giảm gánh nặng cho các nhà đầu tư nước ngoài trong giáo dục đại học. Trong khi đó Ấn Độ dường như không đưa ra được bất kỳ hỗ trợ hay đối xử linh hoạt nào.

Srilanka

Khác hẳn với người láng giềng khổng lồ là Ấn Độ, một quốc gia Nam Á khác Srilanka lại rất linh hoạt trong nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài vào giáo dục đại học. Chính phủ Srilanka đang có tham vọng xây dựng nước mình thành một trung tâm (hub) giáo dục đại học ở khu vực. Trong năm 2013, Srilanka lên kế hoạch xây dựng 6 khu vực ‘đầu tư tự do’ cho giáo dục ở ngoại vi thủ đô Colombo, trong đó các trường nước ngoài sẽ được hưởng ưu đãi tối đa về giá thuê đất và các loại thuế.

Đã có một số trường nước ngoài nộp hồ sơ xin mở trường, trong đó trường đầu tiên là University of Central Lancashire (UCLan), đại học lớn thứ 5 ở Anh. UCLan đã liên doanh với một đối tác Srilanka để thuê 50 ha đất với thời hạn 99 năm cho dự án đầu tư số vốn là 100 triệu USD. Các ưu đãi dành cho dự án này bao gồm 15 năm miễn thuế thu nhập doanh nghiệp và miễn thuế cho các khoản chi trả ra nước ngoài bao gồm lãi vay, phí tư vấn, phí quản lý và phí marketing.  Dự kiến campus sẽ xây xong để tuyển sinh khóa đầu vào tháng 9/2015.

Đây là campus thứ 3 mà UCLan mở ở nước ngoài, sau campus thứ nhất đang hoạt động ở đảo Síp từ năm 2012 và một campus đang xây dựng ở Thái Lan.

Hàng năm có 12.000 sinh viên Srilanka du học ở nước ngoài và tiêu tốn hơn 400 triệu USD. Chính phủ Srilanka muốn giảm bớt xu hướng này bằng cách thu hút các trường quốc tế vào đầu tư ở nước mình. Quy định hiện tại là tỷ lệ sinh viên nước ngoài không ít hơn 5% trong một trường đại học quốc tế, và Chính phủ Srilanka cấp khoảng 150 học bổng hàng năm để thu hút sinh viên từ các quốc gia khác.

Trung Quốc

Với nền kinh tế phát triển tốc độ cao trong nhiều năm liền kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới năm 978, nền giáo dục đại học Trung Quốc cũng đã thay đổi nhanh chóng trong khoảng 30 năm trở lại đây. Mô hình đại học theo kiểu Liên Xô cũ đã thay đổi nhanh chóng theo 4 hướng (i) phân cấp cho địa phương (ii) thương mại hóa (iii) mở rộng và (iv) thị trường hóa (Christine t. Ennew & Yang Fujia, 2009). Từ năm 1949 đến năm 1988, sinh viên Trung Quốc không phải đóng học phí và nhận được hỗ trợ sinh hoạt phí. Đến năm 1997 thì hầu hết các trường đại học Trung Quốc đã áp dụng chế độ học phí. Số lượng sinh viên Trung Quốc du học ở nước ngoài đã tăng lên rất nhanh, làm cho Trung Quốc trở thành quốc gia nước ngoài có số lượng sinh viên đông nhất ở nhiều nước bao gồm Mỹ, Úc và một số nước phương Tây khác.

Các chương trình đào tạo với nước ngoài ở Trung Quốc cũng đã phát triển với tốc độ chóng mặt trong thời kỳ này. Đến năm 2012 có khoảng 1200 chương trình đào tạo liên kết với nước ngoài đang được triển khai. Theo Kenneth E. Redd (2007), có 24% số chương trình đào tạo sau đại học ở Mỹ trả lời là họ đã có chương trình liên kết cấp bằng với một tổ chức ở Trung Quốc.

Khi gia nhập WTO năm 2001, Trung Quốc cam kết mở cửa thị trường nội địa cho ‘dịch vụ giáo dục’.  Trung Quốc chính thức cho các trường đại học nước ngoài mở campus từ năm 2003, bằng việc thông qua Quy định về việc hợp tác Trung Quốc với nước ngoài trong giáo dục đại học (Steven n. Robinson, 2010). Quy định này đòi hỏi đại học nước ngoài liên doanh với một tổ chức Trung Quốc để mở campus đại học. Hai cơ sở đầu tiên được thành lập sau quy định này là University of Nottingham Ningbo (2004), Xi’an Jiaotong Liverpool University (2006).

Hộp 1. Một số trường hợp đại học nước ngoài mở campus ở Trung Quốc

University of Nottingham Ningbo

Là liên doanh giữa University of Nottingham (Anh) và Wanli Education Group (Trung Quốc) để xây campus ở thành phố cảng Ningbo của tỉnh Zhejiang.

Hợp đồng liên doanh ký năm 2004. Các loại thuế phải nộp giống như một công ty liên doanh với nước ngoài ở Trung Quốc.

Campus rộng 144 acres với chi phí xây dựng là 20 triệu bảng Anh.

Năm đầu tiên, 254 sinh viên được tuyển qua 2 cách (i) kỳ thi đại học quốc gia của Trung Quốc (GaoKao), (ii) tuyển trực tiếp theo cách của University of Nottingham. Đến 2012, tổng số sinh viên là hơn 4000.

Duke University’s Trinity College of Arts and Sciences

Năm 2013, Duke University (Mỹ) ký hợp đồng liên doanh với Wuhan University để thành lập trường Duke Kunshan University.

Một campus rộng 81 ha đã được thành phố Wuhan (Vũ Hán) xây dựng với kinh phí 200 triệu USD.

Duke University dự kiến đầu tư 42 triệu USD trong từ 2014-2020.

Các khóa học đầu tiên được tiến hành ở bậc đại học là văn học so sánh, điện ảnh, kịch Trung Quốc, công nghệ sinh học, ở bậc cao học là vật lý, y tế và quản lý.

Duke sẽ đưa 50 giảng viên và cán bộ từ Mỹ sang, cùng với thuê một số người ở địa phương.

Yale University:

Năm 2006, hai trường hàng đầu là Yale University (Mỹ) và Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc) công bố chương trình đại học liên kết giữa 2 trường, giảng dạy một phần bằng tiếng Trung Quốc.

Vào năm 2007, một giảng viên từ Yale, Stephen Stearns, viết một bức thư ngỏ phàn nàn về nạn đạo văn không kiểm soát nổi của nhiều sinh viên Trung Quốc. “Khi một sinh viên của tôi lấy cắp từ ngữ và ý tưởng của một tác giả mà không trích dẫn nguồn, tôi cảm thấy bị lừa dối. Tôi tự hỏi bản thân, tại sao tôi phải dạy những người đang lừa dối mình?”. Stephen Stearns cho rằng hiện tượng đạo văn này dường như được nhiều giảng viên Trung Quốc chấp nhận.

Chương trình này gặp nhiều khó khăn vì chi phí cao, số sinh viên tham gia thấp. Lớp đầu tiên có 21 sinh viên, và số lượng tiếp tục giảm dần xuống xấp xỉ 10 cho các năm học tiếp theo. Số lượng giảng viên của Yale ở Bắc Kinh đã nhiều hơn số sinh viên. Đến 2012, Yale quyết định đóng cửa campus này.

Đến năm 2012, đã có 26 campus của các đại học nước ngoài mở ở Trung Quốc, trong đó Mỹ đứng đầu với 11, Anh thứ hai với 4 và thứ ba là Đức với 3 cơ sở. Theo Bộ giáo dục Trung Quốc, trong năm 2011 họ đã từ chối 70% số đơn do các địa phương nộp lên để mở cơ sở đại học nước ngoài. Việc phê duyệt của Bộ giáo dục ở cấp trung ương càng ngày càng khó khăn, và nhiều trường nước ngoài đã phàn nàn về sự chặt chẽ này (The Economist, 2013). Chính phủ Trung Quốc vẫn giữ quyền xem xét quyết định nhân sự, chương trình học và học phí. Bộ giáo dục Trung Quốc cho thấy họ đang xét duyệt các hồ sơ nộp ở khía cạnh chi phí để có bằng (chi phí càng thấp cho một tấm bằng càng có uy tín càng tốt) và ở góc độ thị trường lao động (các ngành có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn sẽ khó xin phép hơn).

Malaysia

Malaysia có kế hoạch trở thành một trung tâm (hub) giáo dục đại học của khu vực từ gần 20 năm trước. Monash University (Úc) được Chính phủ Malaysia mời để mở campus đầu tiên vào năm 1998. Sau đó là một loạt các trường khác của Anh và Úc. Malaysia là quốc gia đầu tiên mà một số đại học mở campus như University of Nottingham (Anh), Curtin University of Technology (Úc), Swinburne University of Technology (Úc). Năm 2010, trường y Newcastle University Medicine mở cơ sở nằm trong EduCity ở Johor. Đây là mô hình thành phố đại học làm theo cách của Dubai’s International Academic City (DIAC), tạo ra một khu vực tập trung nhiều trường đại học nước ngoài khác nhau.

Đến năm 2013, đã có 6 campus của các đại học Anh và Úc tại Malaysia (Monash, Curtin, Swinburne từ Úc, Nottingham, Newcastle và Southampton từ Anh). Các trường này thu hút sinh viên từ các nước Đông Á và Trung Đông, đặc biệt là các nước đạo Hồi (Bộ giáo dục Malaysia, 2013). Hiện nay hai nước đạo Hồi là Indonesia và Iran là các quốc gia có nhiều sinh viên học nhất ở Malaysia, bên cạnh Trung Quốc. Đây là lợi thế của Malaysia khi thu hút sinh viên học theo giáo dục phương Tây nhưng vẫn sống trong môi trường văn hóa không khác xa với quê hương châu Á của mình. Sau sự kiện Mùa Xuân Ả Rập năm 2011, số lượng sinh viên Trung Đông đến Malaysia đã tăng 14%.

Chính sách của Chính phủ Malaysia là chỉ tạo môi trường pháp lý thông thoáng, và không có hỗ trợ nào về tài chính như Trung Quốc và Singapore. Các trường phải tự đầu tư cơ sở vật chất của mình, ví dụ Monash đã phải đầu tư khoảng 65 triệu USD để xây dựng campus. Ngoài 6 trường nêu trên, đến năm 2012 Malaysia đã nhận 25 đơn xin mở campus của các trường nước ngoài, bao gồm các nước Mỹ, Anh, Australia, Thụy Sỹ và cả UAE, China, Nepal và Singapore (Everett Rosenfeld, 2012). Malaysia đang được hưởng lợi từ việc Trung Quốc thắt chặt cấp phép cho các đại học nước ngoài. Mục tiêu rất tham vọng của Malaysia là tăng số sinh viên nước ngoài lên gấp đôi, đạt con số 200.000 vào năm 2020.

Trong khi đó, các trường của Malaysia cũng đang rất tích cực “xuất khẩu” ra nước ngoài. Limkokwing University for Creative Technology đã mở campuses in Cambodia, Trung Quốc, Indonesia, Lesotho và Swaziland. Đại học tư thục mở Help của Malaysia đang hoạt động rất tích cực ở Việt Nam dưới mô hình liên kết đào tạo với một số trường của Việt Nam (Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học Tài chính – Marketing).

Singapore

Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã tạo động lực cho Chính phủ Singapore tập trung các nguồn lực để chuyển đổi sang nền kinh tế trí thức. Chương trình Manpower 21 năm 1998 vạch ra kế hoạch phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cạnh tranh toàn cầu. Cũng trong năm 1998 Singapore đã đưa ra chương trình Đại học đẳng cấp quốc tế nhằm thu hút 10 trường đại học đẳng cấp quốc tế tới Singapore trong vòng 10 năm thông qua các hình thức như liên kết đào tạo, liên doanh và thiết lập campus độc lập.  Chính sách này được bổ sung bằng sáng kiến “Global Schoolhouse” của Chính phủ Singapore năm 2002, tham vọng thu hút 150.000 sinh viên quốc tế tới Singapore vào năm 2015 (từ con số 50.000 năm 2002), đưa đóng góp của giáo dục trong GDP từ 1.9% lên 5% trong cùng thời gian, tức là ngang với các trung tâm giáo dục quốc tế hàng đầu như Anh và Úc (Mun-Heng Toh, 2012).

Chính phủ Singpapore hỗ trợ việc thu hút này bằng việc cung cấp các khoản vay ban đầu và hỗ trợ tài chính cho các trường thông qua các hợp đồng kéo dài 5 đến 7 năm. Kết quả việc thực hiện các chính sách trong Global Schoolhouse là tương đối thành công, với 18 đại học mở campus ở Singapore dưới hình thức và quy mô khác nhau (tính đến 2014), trong đó có một số đại học hàng đầu nằm trong Top 100 của thế giới. Một số campus thành công là INSEAD (Pháp), University of Chicago Booth School of Business (Mỹ), Curtin University (Úc), German Institute of Science and Technology (Đức). Bên cạnh đó, có gần 100 chương trình đào tạo không mở campus của các đại học nước ngoài, liên kết với các trường/công ty của Singapore.

Tuy nhiên một số đại học nước ngoài đã thừa nhận thất bại và đóng cửa campus của mình, chủ yếu do vấn đề tài chính. Năm 2007, Singapore và Johns Hopkins University đã chấm dứt chương trình nghiên cứu của mình do bất đồng về mức trợ cấp của chính phủ chủ nhà, dù trước đó Singapore đã tài trợ khoảng 50 triệu USD cho chương trình này hoạt động được một số năm. Năm 2008, University of New South Wales (UNSW) của Úc đã đóng cửa cơ sở của mình chỉ sau 1 học kỳ hoạt động vì tuyển được ít sinh viên và các khoản thiếu hụt tài chính quá cao vượt quá sức chịu đựng. Trước đó UNSW đã nhận được khoản vay 15 triệu SGD và khoản trợ cấp không hoàn lại 17 triệu SGD của chính phủ Singapore, với cam kết sẽ đầu tư 500 triệu SGD vào việc xây dựng campus và hoạt động. Sau đó vào năm 2013 UNSW đã phải trả lại 22 triệu USD cho Chính phủ Singapore dưới dạng gốc và lãi (Adele Yung and Yojana Sharma, 2013).

Tisch School of the Arts, một trường nghệ thuật của New York University, dự kiến sẽ đóng cửa chương trình của mình vào năm 2014 do khó khăn tài chính, mặc dù Chính phủ Singapore đã cung cấp một khoản trợ cấp không hoàn lại 5,3 triệu SGD và một khoản vay 11,68 triệu SGD cho trường này. Bản thân New York University  cũng đã bỏ ra hơn 20 triệu SGD hỗ trợ cho Tisch Asia. Hiện có 158 sinh viên đang học các chương trình thạc sĩ của Tisch Asia về nghệ thuật ảnh động và kỹ thuật số, viết kịch bản và sản xuất chương trình media, và chương trình thạc sĩ làm phim 3 năm với giám đốc nghệ thuật là đạo diễn Hollywood Oliver Stone.

Hộp 2. Đại học Yale-NUS, đỉnh cao của hợp tác giáo dục với nước ngoài ở Singapore

Đại học Yale-NUS, hợp tác giữa Yale University và ĐHQG Singapore (NUS), được thành lập năm 2011, với ý tưởng đầu tiên nảy sinh từ cuộc gặp giữa chủ tịch 2 trường tại World Economic Forum ở Thụy Sỹ năm 2009. Đây là trường đại học khai phóng (liberal art)[1] đầu tiên ở Singapore và một trong vài trường liberal art ở châu Á.  Yale-NUS là liên doanh đầu tiên mang tên Yale trong lịch sử hơn 300 năm của một trong những đại học danh tiếng nhất nước Mỹ và thế giới, tuy về mặt nguyên tắc Yale-NUS là một trường đại học tư độc lập hoàn toàn, không phải là campus của Yale tại Singapore. Liên doanh này và một bước quan trọng trong tham vọng của Singapore trở thành “Boston của phương Đông”.

Campus: đặt cạnh University Town của NUS, đang được xây dựng, dự kiến hoàn thành vào năm 2015. Vốn đầu tư cho campus hàng trăm triệu USD này do Bộ Giáo dục Singapore tài trợ, cùng với một quỹ endowment khoảng 250 triệu USD dành cho các hoạt động của trường.

Lãnh đạo: một nửa do Yale bổ nhiệm, một nửa do NUS bổ nhiệm.

Giảng viên: khoảng 50 giáo sư được tuyển dụng từ hơn 3000 đơn từ khắp thế giới. Năm 2012, các giảng viên này đến Mỹ để xây dựng chương trình đào tạo. Tổng số giảng viên là 100 người, Yale sẽ cung cấp các giảng viên còn thiếu.

Sinh viên cho khóa học đầu tiên được tuyển chọn vào năm 2013, với 157 sinh viên được lựa chọn trong 11.400 đơn đến từ 130 quốc gia khác nhau. Tỷ lệ lựa chọn là 4%, ngang với Yale University và một số khoa cạnh tranh nhất của NUS. Tỷ lệ 4% làm cho Yale-NUS trở thành một trong những đại học kén chọn sinh viên nhất thế giới, có thể so sánh với Harvard (5.8%), Stanford (5.7%), Columbia (6.89%) và Princeton (7.4%). 62% sinh viên là người Singapore, còn lại 38% đến từ 26 quốc gia khác, trong đó hơn 10% từ Bắc Mỹ.

Sinh viên chọn chuyên ngành học vào cuối năm học thứ hai. Hiện tại có 14 chuyên ngành: Nhân chủng học, Nghệ thuật & Nhân văn, Kinh tế, Môi trường, Quốc tế, Lịch sử, Sinh học, Văn học, Toán và khoa học máy tính, Triết học, Chính trị học, Vật lý, Tâm lý, Đô thị học.

Học phí và sinh hoạt phí cho một sinh viên quốc tế năm đầu là 52,900 SGD (41,513 USD), thấp hơn mức 55,300 USD của Yale ở Connecticut. Sinh viên Singapore được hưởng học bổng và ưu đãi của Chính phủ Singapore theo chính sách hiện hành của nước này.

Phản đối: trong quá trình chuẩn bị liên doanh, Yale-NUS gặp nhiều phản đối, đặc biệt ở Mỹ và chính Yale

Năm 2012, Jim Sleeper, một giảng viên khoa học chính trị của Yale, viết trên trang The Huffington Post là Yale đã nhận được một khoản đóng góp bí mật là 300 triệu USD từ Chính phủ Singapore để đánh đổi cho việc mở Yale-NUS. Tuy nhiên cả 2 phía Yale và Singapore đều phủ nhận tin đồn này.

Tự do học thuật: ngay từ ban đầu, nhiều giáo sư của Yale và Mỹ bày tỏ lo ngại rằng sứ mệnh của Yale là tự do tư tưởng và học thuật không phù hợp với hệ thống chính trị kiểm soát chặt chẽ của Singapore, bao gồm hạn chế hội họp công cộng, hạn chế tự do ngôn luận, và luật chống đồng tính. Bộ giáo dục Singapore trả lời rằng Yale-NUS sẽ được duy trì nguyên tắc tự do học thuật như các trường đại học khác ở Singapore, trong khi lưu ý các sinh viên và giảng viên hành xử theo cách tôn trọng hoàn cảnh của Singapore.

Năm 2012, một trường đại học công lớn khác của Singapore là Nanyang Technological University (NTU) bị lên án là vi phạm tự do học thuật khi không gia hạn hợp đồng với Mr. Cherian George.  Mr. George là một giáo sư chuyên ngành báo chí, giảng viên NTU từ năm 2004. Với bằng tiến sĩ ở Stanford và từng học ở Cambridge và Colombia, trong các bài báo nghiên cứu và sách đã xuất bản của mình, Mr. George không ít lần chỉ trích Đảng cầm quyền PAP của Singapore hạn chế tự do báo chí. Theo tạp chí Times Higher Education, quyết định này của NTU có thể là nguyên nhân dẫn tới việc trường này tụt 20 bậc trong bảng xếp hạng đại học thế giới 2013 của mình (từ nhóm 71-80 xuống nhóm 91-100).

Tháng 4/2012, một nhóm các giáo sư của Yale đã thông qua nghị quyết bày tỏ sự lo ngại của mình về việc “Singapore có truyền thống thiếu tôn trọng các quyền dân sự và chính trị”. Tuy nhiên Chủ tịch của Yale-NUS, một giáo sư văn học so sánh của Yale, phát biểu rằng chính phủ Singapore đã cam kết đảm bảo tự do học thuật tại đại học mới được thành lập này.

1.2       Từ góc độ các trường đại học mở chi nhánh ở nước ngoài

Bốn động lực cơ bản để một đại học mở rộng hoạt động ở nước ngoài là văn hóa/xã hội, chính trị, học thuật và kinh tế (Knight J, 1999). Cụ thể hơn là động lực để tăng doanh thu, áp lực cạnh tranh, mong muốn tăng tầm ảnh hưởng, uy tín và chất lượng đào tạo. Các bảng xếp hạng các đại học thế giới đều đánh giả khả năng hợp tác quốc tế của các đại học, mức độ quốc tế hóa thành phần sinh viên để đa dạng hóa năng lực sáng tạo và tham gia vào sự phát triển tri thức toàn cầu. Sự tham gia càng ngày càng tăng của khu vực tư nhân trong giáo dục đại học cũng góp phần thúc đẩy quá trình quốc tế hóa này. Các trường đại học của các nền giáo dục hàng đầu thế giới của các nước phát triển phương Tây và cả một số nền kinh tế mới nổi đều không nằm ngoài xu hướng này.

Mỹ

Hệ thống giáo dục đại học của Mỹ từ lâu được thế giới xem như một hệ thống tốt nhất trên thế giới, đã và đang trở thành một lĩnh vực xuất khẩu lớn với càng nhiều trường đưa chương trình đào tạo của mình ra nước ngoài.

Đến 2013, các đại học Mỹ có 78 campus bên ngoài lãnh thổ của mình trong tổng số 200 campus ở nước ngoài của toàn bộ các đại học trên thế giới (Yojana Sharma, 2012). Các trường Mỹ đang tích cực cạnh tranh với các trường của các nước nói tiếng Anh như Anh và Úc, đặc biệt ở châu Á.

Bắt đầu ở châu Âu từ vài chục năm trước, các đại học Mỹ thực sự bước ra nước ngoài vào thập niên 1980, nhằm vào Nhật Bản là một thị trường lớn rất tiềm năng vào thời điểm bấy giờ với nhiều sinh viên có khả năng tài chính tốt và mong muốn tiếp cận các đại học phương Tây. Tuy nhiên sau hơn 30 năm, trong số 30 trường đã mở campus ở Nhật Bản, chỉ còn 2 campus tồn tại được là Temple University và Lakeland College.

Tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên quy mô toàn cầu trong hai nhiệm kỳ của Clinton và nhiệm kỳ đầu của Bush đã tạo ra nhu cầu rất lớn với giáo dục đại học Mỹ. Làn sóng thứ hai đến từ đầu thế kỷ 21 với sự hấp dẫn của đồng tiền dầu mỏ ở các nước Trung Đông. Năm 2008, Susan Jeffords, hiệu phó phụ trách quan hệ quốc tế của University of Washington nói rằng trường của bà nhận được một đề nghị hợp tác từ nước ngoài mỗi tuần “Nó đến nhiều như là spam vậy” (Tamara Abdul Hadi, 2008)

Vụ khủng bố 11/9/2001 ở Mỹ càng thúc đẩy các đại học của Mỹ ra nước ngoài do các lý do khác biệt văn hóa và hạn chế visa của các sinh viên Trung Đông. Tại Education City ở Doha, sinh viên có thể học chương trình y tế Weill Medical College từ Cornell University, quan hệ quốc tế của Georgetown, khoa học máy tính của Carnegie Mellon, nghệ thuật của Virginia Commonwealth, công nghệ của Texas A&M. Cũng ở Dubai, Michigan State University and Rochester Institute of Technology đã bắt đầu mở các lớp học của mình.

Các trường về công nghệ và kinh doanh được chào đón nhất ở nước ngoài. Mặc dù New York Institute of Technology có thể không là đại học hàng đầu ở Mỹ, về phương diện toàn cầu hóa thì trường này dẫn đầu, với các chương trình ở Bahrain, Jordan, Abu Dhabi, Canada, Brazil và Trung Quốc.

David J. Skorton, cựu chủ tịch của Cornell, cho rằng toàn cầu hóa mang nhiều ích lợi cho đại học Mỹ “Giáo dục đại học là nguồn lực ngoại giao quan trọng nhất mà chúng ta có. Tôi tin rằng các chương trình giáo dục này có thể giảm bất đồng giữa các quốc gia và các nền văn hóa” (Tamara Abdul Hadi, 2008)

Tuy nhiên có nhiều lo ngại và thắc mắc bên trong nước Mỹ liên quan tới xuất khẩu giáo dục đại học. Liệu các cơ sở ở nước ngoài sẽ phản ánh văn hóa và giá trị Mỹ, hay của nước chủ nhà? Liệu người đóng thuế Mỹ có phải chi trả cho các sinh viên ở nước ngoài? Việc các chi nhánh đại học ở nước ngoài truyền bá bí quyết và kiến thức có làm ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của Mỹ? Dân biểu hạ viện Dana Rohrabacher của Đảng Cộng hòa ở California cho rằng “Nhiều đại học đang giả vờ tử tế và tốt bụng, trong khi thực tế họ chỉ muốn kiếm tiền ở nước ngoài”.

Sau khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009, các đại học Mỹ đã gặp rất nhiều khó khăn và nhiều trường phải từ bỏ kế hoạch quốc tế hóa của mình (Justin Pope, 2010). Michigan State và George Mason đã đóng các campus đắt tiền của mình ở Trung Đông. Suffolk University đóng cửa cơ sở ở Senegal sau khi kết luận rằng mang sinh viên đến Boston còn ít tốn kém hơn. New York University, University of Nevada đang lên kế hoạch đóng cửa cơ sở của mình ở Singapore vì mất cân đối tài chính. Yale đã chấm dứt chương trình đại học ở Bắc Kinh Trung Quốc… Các đại học Mỹ đã nhận ra rằng cuộc chơi của mình ở nước ngoài là không đơn giản chút nào.

Anh

So với Mỹ thì các đại học Anh bước ra nước ngoài chậm hơn đáng kể. Đại học của Anh đầu tiên mở campus ở nước ngoài là Nottingham University với campus ở Malaysia khai trương vào tháng 9/2000. Tới năm 2009 đã có 13 campus, và con số này tăng nhanh chóng lên 25 vào năm 2013.

Điểm đến ưa thích của các đại học Anh là Trung Quốc và Malaysia. Mới có thêm 4 cơ sở của University College London ở Adelaide, Qatar, Kazakhstan và Singapore. Ba đại học Anh cũng đã mở chi nhánh ở thị trường rất lớn và nhiều tiềm năng là Ấn Độ, trong đó Lancaster University liên doanh với GD Goenka World Institute ở Gurgaon; Strathclyde Business School ở Noida; và Leeds Metropolitan ở Bhopal.

Các đại học Anh cũng gặp không ít khó khăn và thậm chí thất bại ở nước ngoài. Kế hoạch mở campus của Universty of Central Lancashire ở Thái Lan đã bị phá sản sau khi đối tác Thái trong liên doanh (chiếm 49% vốn của dự án 1 tỷ Bạt/30 triệu USD) không thu xếp được diện tích đất đã dự kiến. University of Central Lancashire đã chấp nhận mất một khoản 3,2 triệu bảng cho các chi phí chuẩn bị đầu tư đã bỏ ra.

Với các đại học Anh, học phí giảm là một mục tiêu rõ ràng của việc quốc tế hóa. Ví dụ đối với cơ sở của University of Nottingham ở Anh, sinh viên nước ngoài học ngành Khoa học Máy tính phải trả 23,660 USD một năm. Nếu chuyển sang học ở campus tại Malaysia thì chi phí chỉ bằng 50%. Ngay cả với sinh viên người Anh, học phí sẽ giảm đáng kể. Ví dụ trong niên khóa 2012-13, sinh viên người Anh sẽ phải nộp £9,000 tại Nottingham (khoảng 14,225 USD), nếu chuyển sang học ở Malaysia thì chi phí sẽ thấp hơn do chi phí sinh hoạt rẻ hơn ở Malaysia (Everett Rosenfeld, 2012).

Úc

Monash là đại học đầu tiên của Úc mở campus ở nước ngoài, với cơ sở đầu tiên ở Malaysia năm 1999. RMIT với campus ở Việt Nam là trường thứ hai được cấp giấy phép năm 2000. Cho tới nay các đại học Úc có 12 campus ở nước ngoài (Benjamin Preiss, 2012).

Monash cho biết từ 25 năm trước họ đã quyết định sẽ mở rộng ra nước ngoài, và Monash là một trong các trường tích cực nhất của Úc trên thế giới. Monash đã mở campus ở Nam Phi và Malaysia, họ cũng có trung tâm nghiên cứu ở Italy và Ấn Độ.

Một trường thuộc nhóm giữa của Úc khác là Swinburne cũng đã mở campus ở bang Sarawak của Malaysia.  Trừ trường hợp của University of New South Wales thất bại ở Singapore, nhìn chung các đại học công lập của Úc, cũng như các trường cao đẳng/nghề của hệ thống TAFEs là khá thành công khi mở rộng ở nước ngoài.

Trong một góc nhìn khác, các trường “uy tín” hàng đầu của Úc như University of Melbourne, Sydney và Queensland vẫn chưa mở campus ở nước ngoài. Họ là các trường có đẳng cấp cao hơn, và do đó vẫn dựa vào cách tiếp cận “chờ và thu hút sinh viên đến Úc”.

Đức

Đức là nước có hệ thống giáo dục đại học phát triển và có truyền thống/bề dày hàng đầu ở châu Âu và thế giới. Tuy nhiên so với các đại học của các nước nói tiếng Anh (Mỹ, Anh, Úc) thì Đức gặp khó khăn hơn trong quá trình quốc tế vì rào cản ngôn ngữ.

Một khác biệt quan trọng nữa là hệ thống trường đại học ở Đức và nhiều  nước châu Âu (trừ Anh) tương tự nhau, phần lớn là đại học công lập (Đức có hàng chục đại học tư thành lập trong mấy chục năm gần đây, tuy nhiên số sinh viên chỉ chiếm dưới 1%). Trên tinh thần hiến pháp về quyền bình đẳng giáo dục, các ĐH công lập ko được phép kinh doanh qua học phí để ai cũng có thể học đại học. Các giáo sư đều là công chức nhà nước. Cùng là công lập, nhưng các trường công lập ở Mỹ có mức độ tự chủ cao hơn nhiều. Các đại học công lập ở Đức không có nhu cầu mở rộng để phục vụ kinh doanh, những liên doanh, liên kết chỉ diễn ra vì số lượng sinh viên theo học ở Đức (cả bản xứ lẫn du học), đặc biệt những ngành kỹ thuật, giảm mạnh trong những năm vừa rồi. Trong bối cảnh kinh phí cấp cho các trường đều dựa vào số lượng sinh viên, nên các trường buộc phải tìm các hình thức liên doanh, liên kết, mở trường ở nước ngoài để đảm bảo số lượng sinh viên từ đó đảm bảo kinh phí được cấp.

Mục đích mở trường Đức ở nước ngoài nói chung nằm trong chiến lược chung về quốc tế hóa bậc giáo dục sau phổ thông được Chính phủ Liên bang đưa ra. Bộ giáo dục Đức đã công bố công khai chiến lược quốc tế hóa này, chủ yếu nhằm mục đích:

Đảm bảo số lượng và chất lượng lực lượng lao động cho các công ty Đức ở trong và ngoài nước.
Điều chỉnh hệ thống GDĐH phù hợp với các chuẩn quốc tế (cụ thể theo Bologna Process).
Tạo điều kiện cho các đại học  Đức có thêm điều kiện phát triên trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Tới nay đã có 11 đại học Đức mở ở nước ngoài, trong đó hầu hết đều thành lập sau năm 2000 và có từ “nước Đức/Germany” trong tên trường (giống Đại học Việt Đức của Việt Nam). Điều này chứng tỏ sự hậu thuẫn của nhà nước (Liên Bang hay tiểu bang) với các trường này. Các nước nói tiếng Đức khác như Thụy Sỹ và Áo cũng tham gia hỗ trợ một số cở sở. Đây là sự khác biệt chủ yếu giữa Đức với các nước nói tiếng Anh là hầu hết các đại học của Mỹ, Anh, Úc đều hoạt động trên cơ sở độc lập gần như không có sự trợ giúp của chính phủ.

Bảng 1: các campus đại học Đức ở nước ngoài

Tên trường Nước Năm thành lập
German University in Cairo Ai Cập 2003
Chinese-German School for Graduate Studies Trung Quốc 1907, tái lập năm 1998
Swiss German University in Jakarta Indonesia 2000
German Jordanian University Jordan 2005
German-Kazakh University in Almaty Kazakhstan 2007
German University of Technology (GUTech) in Muscat Oman 2005
German Institute of Science & Technology – TUM Asia (GIST-TUM Asia) Singapore 2002
Andrássy Gyula German-language University in Budapest (AUB) Hungary 2002
German Graduate Faculty of Logistics (GGFL) in Abu Dhabi UAE 2011
German-Turkish University (DTU) Turkey 2010
ĐH Việt Đức (VGU) Việt Nam 2008

Nguồn: Bộ giáo dục CHLB Đức

Pháp

Tuy có nhiều điểm tương đồng về tổ chức giáo dục đại học, Pháp khác với Đức ở chỗ có hệ thống “trường lớn hay trường điểm” (grandes école), trong đó một số là đại học tư. Vì thế động lực để vươn ra quốc tế của hệ thống đại học Pháp nhìn chung là mạnh hơn Đức. Tới nay đã có 27 campus được các đại học Pháp mở ở nước ngoài, trong đó có 12 cơ sở của một trường thời trang là ESMOD International Fashion University đặt ở Châu Âu, Bắc Phi và Đông Á (Yojana Sharma, 2012). Một số không nhỏ các campus ở nước ngoài là của các trường kinh doanh Pháp, vốn được đánh giá là nằm trong số các trường tốt nhất châu Âu (Pháp đóng góp 6/10 chương trình thạc sĩ quản trị kinh doanh tốt nhất châu Âu, không tính Anh). Hầu hết các trường kinh doanh của Pháp có một phần sở hữu tư nhân, do các phòng thương mại khu vực vận hành.

Ngay cả một trường hàng đầu như Paris Sorbonne University cũng đã mở campus ở Abu Dhabi (UAE) theo lời mời và các khoản kinh phí hậu hĩnh của nước chủ nhà.

Các nước đang phát triển

Ấn Độ là nước dẫn đầu trong các nước đang phát triển, với 17 campus đại học ở nước ngoài, bao gồm 10 ở UAE và 4 ở Mauritius. Đại học Amity University có campus ở London, trong khi ĐH SP Jain Centre of Management từ Mumbia có kế hoạch mở campus ở Australia.

Đại học Limkokwing University of Creative Technology của Malaysia đã có các campus ở Cambodia, Trung Quốc, Botswana, Lesotho, và một campus ở London.

Đại học Azad Hồi giáo Iran mới mở các campus ở Afghanistan, Armenia, Lebanon, Tanzania và Dubai. Trường này có kế hoạch mở cơ sở ở Canada, Tajikistan và Malaysia.

Năm 2013, Trung Quốc tuyên bố Malaysia sẽ là nước đầu tiên để Trung Quốc mở campus của một trường hàng đầu là Xiamen University. Trung Quốc cũng đang có kế hoạch mở một phân hiệu đại học ở Lào.

Việt Nam: đầu năm 2014, trường ĐH FPT và trường ĐH Victoria (Myanmar) đã hoàn tất ký kết, triển khai một cơ sở giáo dục mang tên Victoria-FPT University tại Yangon, Myanmar. Theo nội dung thoả thuận hợp tác, ĐH FPT sẽ triển khai chương trình đào tạo cấp bằng đại học, chịu trách nhiệm về giảng viên, tổ chức giảng dạy, quản lý chất lượng trong suốt thời gian đào tạo và cấp bằng tốt nghiệp. Quy mô đào tạo dự kiến bắt đầu từ 120 sinh viên trong năm 2014, tăng lên 1000 sinh viên vào năm 2016.

Chương trình đào tạo tại ĐH Victoria-FPT sẽ tương đồng với chương trình đào tạo ngành Kỹ thuật phần mềm đang triển khai tại Đại học FPT tại Việt nam. Nhiều giảng viên tại Đại học FPT sẽ trực tiếp tham gia giảng dạy tại ĐH Victoria-FPT bằng tiếng Anh. Cùng với việc tuyển hàng trăm sinh viên nước ngoài tới học tại Việt nam, sự kiện này đã đưa ĐH FPT thành trường Đại học Việt Nam đầu tiên xuất khẩu giáo dục ra nước ngoài.

Tóm tắt phần 1: phần này đã đưa ra thông tin tổng quát về quá trình quốc tế hóa đại học trên quy mô thế giới trong gần 20 năm qua. Chúng ta có thể thấy sự cạnh tranh mạnh ở cả phía cung và cầu trong dịch vụ giáo dục đại học. Tài chính là một yếu tố rủi ro lớn có thể làm thất bại tham vọng của các trường cũng như nước chủ nhà, vì dù các trường không nhằm vào mục tiêu lợi nhuận nhưng việc cân đối tài chính là yêu cầu tất yếu, tức là thu phải đủ trang trải các chi phí đầu tư ban đầu và chi phí hoạt động hàng năm. Nhiều đại học phương Tây nhằm vào thị trường với thu nhập đầu người cao (khả năng chi trả của sinh viên và của Chính phủ/tổ chức tốt) như Nhật Bản, Trung Đông. Một số nước như Singapore và Trung Quốc đưa ra các hỗ trợ tài chính mạnh để thu hút các đại học hàng đầu thế giới. Hiểu đầy đủ được mục tiêu, động lực, điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của quá trình quốc tế hóa giáo dục đại học thì các nhà quản lý giáo dục Việt Nam mới có thể đưa ra chiến lược đúng đắn, chọn được đối tác đúng để phát triển giáo dục đại học nước nhà.

2. Giáo dục đại học có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam

Kể từ khi bắt đầu chính sách đổi mới và mở cửa năm 1986, giáo dục đại học Việt Nam đã có nhưng thay đổi sâu sắc. Cùng với số lượng du học sinh nước ngoài tăng lên nhanh chóng và đạt con số hơn 100.000 người năm 2013, các hình thức đào tạo có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam đang phát triển rất nhanh, bao gồm (i) liên kết đào tạo giữa đại học trong nước và nước ngoài, (ii) các trường có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam, và gần đây nhất là (iii) phát triển các trường công lập hợp tác với nước ngoài theo chương trình đại học xuất sắc/đẳng cấp quốc tế của Chính phủ Việt Nam (Việt Đức, Việt Pháp, Việt Nhật, Việt Anh, Việt Mỹ)

2.1. Liên kết đào tạo giữa các trường đại học trong và ngoài nước

Quá trình liên kết đào tạo giữa các trường đại học trong và ngoài nước đã diễn ra từ những năm 1990, tuy nhiên chỉ thực sự bắt đầu từ năm 2000 với việc ban hành Nghị định số 18/2001 ngày 4/5/2001 về lập và hoạt động của các cơ sở văn hóa, giáo dục nước ngoài tại Việt Nam và Thông tư số 15/2003 của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 18/2001.

Vào năm 2001, có 15 cơ sở đào tạo ở Việt Nam liên kết với các nước trên thế giới đào tạo sau đại học với 27 chương trình liên kết, trong đó Pháp đứng đầu với 4 chương trình (AUPELE-UREF/IFI/ĐH Bách Khoa Hà Nội, CFVG, Pantheon – Assas – Paris II/Luật, Toulouse/Luật), Úc 3 chương trình (Swinburn/ĐH KTQD, Victoria/ĐH Ngoại ngữ, RMIT/VNU), Hà Lan, Bỉ, Thái Lan (AIT) mỗi nước 2 chương trình, và một số nước có một chương trình liên kết như Mỹ (Fulbright/ĐH KT TPHCM), Anh (Henly/KTQD), Thụy Điển (Upsala/ĐH Nông lâm TPHCM), Canada (Montreal/ĐH Kiến trúc).

Đến năm 2014, theo số liệu của Bộ giáo dục và Đào tạo, có 246 chương trình liên kết với nước ngoài đã được Bộ cấp phép, chưa kể các chương trình do 2 đại học quốc gia và 3 đại học vùng trực tiếp quản lý. Trong số này, với 72 chương trình, Pháp là nước dẫn đầu trong số các nước có chương trình liên kết với Việt Nam, tiếp theo là Mỹ (65 chương trình), Anh (45), Australia (39) và Trung Quốc (35).

Đánh giá về một số mặt của các chương trình liên kết như sau:

Khung pháp lý và quản lý nhà nước:

Cơ sở pháp lý và văn bản hướng dẫn liên kết đào tạo với các trường nước ngoài có một số điểm không rõ ràng, một số vấn đề chưa được hướng dẫn cụ thể. Từ 2001 đến 2012 thực hiện theo Nghị định 18/2001 và Thông tư 15/2003, theo Thanh tra Chính phủ thì Thông tư 15/2003 dù ban hành chậm 2 năm so với Nghị định nhưng vẫn chưa quy định chi tiết về hình thức, đối tượng và điều kiện tuyển sinh. Đến năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị định 73/2012 ngày 26/9/2012 thay thế Nghị định 18/2001. Đến nay đã hơn 18 tháng nhưng Bộ giáo dục và đào tạo vẫn chưa đưa ra một thông tư hướng dẫn chi tiết thay cho Thông tư số 15/2003 đã hết hiệu lực.

Việc quản lý liên kết đào tạo không tập trung vào một đầu mối. Từ 2012, Cục đào tạo với nước ngoài của Bộ GDĐT công bố danh sách khoảng gần 250 chương trình liên kết đã được Bộ phê duyệt của 76 trường đại học, tuy nhiên danh sách này không bao gồm số lượng không nhỏ các chương trình của 2 Đại học quốc gia và 3 Đại học vùng. Đây là điểm không rõ ràng vì Bộ GDĐT là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục thì không chỉ nắm số liệu các chương trình do mình trực tiếp cấp phép mà còn cần tổng hợp các số liệu khác nữa trước khi công bố.

Đối tác nước ngoài

Theo Kết luận của Thanh tra Chính phủ đã công bố về liên kết đào tạo (1/2013), trong số 94 chương trình liên kết với nước ngoài được thanh tra thì chỉ có 7 trường được xếp thứ hạng cao trong khu vực và trên thế giới.

Nguồn: Thanh tra chính phủ, 2013

Việc Thanh tra Chính phủ dùng bảng xếp hạng của Webometrics với 12.000 trường là vấn đề có thể còn bàn cãi, tuy nhiên với thứ tự xếp thứ trên 1000 mà đã được coi là thứ hạng cao thì có thể hiểu toàn bộ các trường còn lại đều xếp thứ hạng thấp (dưới 1000) trong danh sách các đại học trên thế giới? Nếu đây là sự thực thì chất lượng trung bình của toàn bộ các chương trình liên kết đại học sẽ khó có thể đạt như kỳ vọng, và chắc chắn sẽ thấp hơn nhiều các chương trình liên kết đào tạo cùng loại mà các nước lân cận như Trung Quốc, Malaysia hay Singapore đang triển khai với sự tham gia của không ít trường trong Top 200, thậm chí Top 100 hay 50 của thế giới.

Cơ cấu ngành đào tạo

Thống kê theo danh sách của Cục đào tạo với nước ngoài (Vied) công bố tháng 4/2014, cơ cấu hệ đào tạo của các chương trình liên kết như sau:

Bảng 2: Cơ cấu hệ đào tạo liên kết

Thạc sĩ 42.1%
Cử nhân 42.1%
Kỹ sư 3.4%
Cao đẳng 8.2%
Trung cấp 2.6%
Tiến sĩ 1.7%
Tổng 100%

Nguồn: tác giả thống kê từ danh sách công bố của Cục đào tạo với nước ngoài (4/2014)

Tỷ lệ đào tạo hệ kỹ sư chỉ chiếm 3,4% tổng số chương trình đào tạo cho thấy lĩnh vực kỹ thuật-công nghệ gần như không đáng kể trong các chương trình đào tạo, và trong các chương trình kỹ thuật thì chương trình ngắn (bằng cử nhân) áp đảo các chương trình chuyên sâu hơn (bằng kỹ sư).

Cơ cấu ngành đào tạo được thống kê như sau:

Bảng 3: Cơ cấu ngành nghề đào tạo liên kết

Chính sách công/QLNN Quản trị KD Tài chính Luật Công nghệ thông tin Khoa học công nghệ Khoa học XH Ngoại ngữ
3.1% 47.8% 17.6% 2.7% 10.8% 11.2% 1.7% 5.1%

Nguồn: tác giả thống kê từ danh sách công bố của Cục đào tạo với nước ngoài (4/2014)

Bảng trên cho thấy quản trị kinh doanh chiếm tới 47,8% số chương trình liên kết, tài chính/ngân hàng đứng thứ hai với 17,6%. Tổng cổng hai ngành này chiếm tới 65% tổng số các chương trình liên kết. Trong khi đó các ngành quan trọng như chính sách công/quản lý nhà nước chỉ có 3,1%, đặc biệt là khoa học xã hội chỉ có tổng cộng 5 chương trình liên kết với tỷ lệ 1,7%. Khoa học công nghệ (trừ công nghệ thông tin) chỉ chiếm hơn 11%. Đây là một cơ cấu méo mó bất hợp lý, thể hiện sự phân bổ nguồn lực không tương ứng với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Tỷ lệ “méo” này cũng giống như tỷ lệ đào tạo các ngành không hợp lý trong giáo dục đại học ở Việt Nam trong 5-10 năm qua, với các ngành kinh doanh/tài chính/kinh tế chiếm tỷ trọng lớn sinh viên, khối kỹ thuật/công nghệ trở nên teo tóp vì ít người muốn theo nghề này. Từ góc độ các trường đại học, điều này có thể lý giải là đào tạo ngành kỹ thuật/công nghệ sẽ đòi hỏi chi phí cao hơn nhiều (chi phí đầu tư cơ sở vật chất/thiết bị và chi phí vận hành), các trường tham gia không muốn chịu rủi ro tài chính nên chỉ tổ chức đào tạo các ngành chi phí thấp để có khả năng thu hồi tài chính cao hơn.

Tóm tắt phần 2.1: với các thông tin và phân tích ở trên, có thể thấy liên kết đào tạo nước ngoài ở Việt Nam đã tạo được một số lợi ích như tiếp cận được các nền giáo dục tiên tiến, nâng cao trình độ cán bộ giảng dạy Việt Nam và khả năng hợp tác quốc tế, nâng cao thu nhập cho một số trường/giảng viên/cán bộ, giúp một số sinh viên có bằng cấp quốc tế mà không phải tốn kém ra nước ngoài. Tuy nhiên về cơ cấu đào tạo, chất lượng đào tạo và trường liên kết, cũng như quản lý nhà nước có nhiều vấn đề cần xem xét cải tiến.

2.2.      Đầu tư nước ngoài (FDI)

Như đã phân tích trong phần 1, việc các đại học quốc tế hóa dưới hình thức đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) diễn ra khá sôi động ở châu Á trong thời gian vừa qua. Lĩnh vực giáo dục Việt Nam cũng nhận được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Theo số liệu của Bộ KH&ĐT, tính đến cuối năm 2013, đã có 171 dự án FDI với tổng số vốn 731 triệu USD đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên phần lớn các dự án này là trong lĩnh vực đào tạo ngoại ngữ, các khóa ngắn và cho giáo dục phổ thông, còn giáo dục đại học mới có 3 dự án với tổng số vốn đăng ký là 57 triệu USD. Bên cạnh dự án Đại học Mỹ Thái Bình Dương (APU) ở Đà Nẵng do một người Mỹ gốc Việt đầu tư, chưa tuyển sinh và đang trong giai đoạn xây dựng campus,  hai dự án có quy mô lớn hơn là RMIT Việt Nam và British University Việt Nam được phân tích trong phần dưới.

British University Vietnam (BUV)

BUV được Thủ tướng Chính phủ cấp giấy phép thành lập năm 2009 theo hình thức công ty 100% vốn nước ngoài. Vốn pháp định là 15,5 triệu USD từ một nhóm các nhà đầu tư có kinh nghiệm ở Việt Nam, từng đầu tư vào Trung tâm ngoại ngữ Apollo 100% vốn nước ngoài, hoạt động khá thành công từ năm 1994.

BUV không phải là hình thức campus của một đại học Anh, mà là một trường mới thành lập hoàn toàn. BUV liên kết với 2 trường ở Anh là University of London và Staffordshire University, trong đó University of London là một trường thuộc Top trên (Top 5 ở Anh), còn Staffordshire là một trường thuộc top dưới, mới thành lập hơn 20 năm.

Hiện nay BUV đang sử dụng một trụ sở nhỏ tạm thời ở nội thành Hà Nội, trong khi đợi xây dựng campus rộng 6,5 ha ở khu đô thị mới EcoPark cách trung tâm thành phố hơn 10 km. Tổng vốn đầu tư cho campus mới này là 40 triệu USD, có thể phục vụ 10.000 sinh viên.

Hiện nay BUV đang đào tạo 4 chương trình cử nhân đại học ngành quản trị kinh doanh, marketing, tài chính kế toán với Staffordshire và 1 chương trình cử nhân ngành tài chính kế toán với University of London.

Mặc dù học phí chỉ bằng 50% mức tương tự ở Anh, việc tuyển sinh của BUV bắt đầu từ năm 2010 có vẻ không được thành công lắm, số sinh viên nhập học khá ít so với dự kiến. Khóa học đầu tiên ra trường 9/2013 chỉ có 20 sinh viên. Dường như BUV đang phải cạnh tranh khốc liệt với RMIT, với các trường đại học Việt Nam và với chính các đại học Anh/quốc tế đang tuyển sinh ở Việt Nam theo hình thức du học.

Tiến độ triển khai của BUV không nhanh và không khả quan như RMIT trước đây, tuy nhiên khó có thể kết luận mức độ thành công của BUV vào thời điểm này dù thực tế BUV đang vật lộn với tuyển sinh và đầu tư campus mới. Cần phải đợi campus của trường xây xong mới đánh giá được mức độ hấp dẫn thực sự của BUV.

Royal Melbourne Institute of Technology (RMIT)

RMIT chính thức bắt đầu các hoạt động ở Việt Nam từ năm 1995 thông qua hợp tác với Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU) triển khai chương trình thạc sỹ về công nghệ hệ thống với sự dẫn dắt của một người Úc gốc Việt là Dr. Nguyễn Xuân Thu. Thông qua dự án này, RMIT đã thiết lập mối quan hệ làm việc tốt với GS Nguyễn Văn Đạo, giám đốc VNU, một người có ảnh hưởng lớn trong hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam (Nguyễn Xuân Thu, 2014)

Tháng 5/1996, RMIT và VNU đồng tổ chức hội thảo “Giáo dục đại học trong thế kỷ 21: sứ mệnh và thách thức cho các nước đang phát triển”. Hội thảo có sự tham gia của Bộ trưởng giáo dục đào tạo Trần Hồng Quân, và Bộ GDDT bắt đầu quan tâm tới ý tưởng một đại học quốc tế ở Việt Nam từ thời điểm đó. Bộ trưởng Quân yêu cầu RMIT lập một đề án sơ bộ mở một phân hiệu đại học nước ngoài ở Việt Nam.

Lúc đó Việt Nam chưa có khung pháp lý cho một đại học nước ngoài như vậy, Văn phòng Chính phủ sau khi xem xét đề án sơ bộ của RMIT đã yêu cầu Bộ GDDT dự thảo khung pháp lý cho việc này. Đến tháng 1/1998, Văn phòng Chính phủ đã đồng ý về nguyên tắc để RMIT mở campus ở Việt Nam theo Luật đầu tư nước ngoài. RMIT đã bắt đầu xây dựng báo cáo khả thi và kế hoạch dự án chi tiết. Tổng số vốn đầu tư ước tính cần thiết là 30 triệu USD, là vượt quá khả năng huy động vốn tự có của RMIT. Kế hoạch ban đầu là vay 50% từ nguồn vốn thương mại của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) và Công ty tài chính quốc tế (IFC), một đơn vị trực thuộc của Ngân hàng Thế giới (WB) chuyên cho vay khu vực tư nhân. Tuy nhiên việc thu xếp vốn là không đơn giản và có thể đi vào bế tắc lúc đó.

Cùng thời gian này, Mr. Chuck Feeney, một người Mỹ đang ở Việt Nam và tình cờ đọc mẩu tin trên Vietnam News về khả năng mở trường của RMIT ở TP HCM. Feeney hỏi một đồng nghiệp người Úc “Trường RMIT này là gì? Có phải là một trường đại học uy tín không?”. Sau khi tìm hiểu thông tin, Feeney đến Úc và gặp các lãnh đạo của RMIT, yêu cầu cung cấp Kế hoạch Kinh doanh của campus. Một tháng sau đó, Feeney đến gặp Chủ tịch RMIT và nói “Tôi đã đọc Kế hoạch Kinh doanh và quyết định cấp cho các ông 15 triệu USD như yêu cầu. Đó là thời khắc quyết định sự thành công của dự án. Sự hào phóng không điều kiện của Feeney[2] đã hiện thực hóa kế hoạch của RMIT tại Việt Nam (David Beanland, 2011)

Với sự giúp đỡ của UBND TPHCM, trực tiếp là Phó chủ tịch Lê Thanh Hải, RMIT đã tìm được địa điểm ở Nam Sài Gòn và hoàn tất bộ hồ sơ xin giấy phép, nộp cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư vào cuối năm 1999. Vào ngày 20/4/2000, Bộ KHĐT đã cấp giấy phép cho dự án 100% vốn nước ngoài của RMIT với thời hạn 50 năm. Ngay tiếp sau đó, tháng 3/2001, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký Nghị định 18/2001 quy định về lập và hoạt động của các cơ sở văn hoá, giáo dục nước ngoài tại Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý để RMIT chính thức hoạt động tại Việt Nam.

Cần lưu ý là quan hệ Việt Nam – Australia đang trở nên rất tốt trong thời gian này, với một mốc quan trọng là cầu Mỹ Thuận bắc qua sông Tiền nằm trên huyết mạch giao thông quốc lộ 1A, một công trình viện trợ không hoàn lại trị giá 60 triệu USD của Australia, đã chính thức được đưa vào sử dụng trong tháng 5/2000. Quan hệ ngoại giao thuận lợi và sự hỗ trợ của Chính phủ Úc là một yếu tố tích cực giúp cho việc xin phép của RMIT dễ dàng hơn. Với một trường đại học phương Tây với các khác biệt cơ bản về ý thức hệ (là đại học đầu tiên ở Việt Nam sinh viên không phải học các môn chính trị tư tưởng), việc mở chi nhánh của RMIT ở Việt Nam là một thay đổi rất hệ trọng đòi hỏi sự đồng ý của các cấp cao nhất trong hệ thống chính quyền và Đảng của Việt Nam.

Đến năm 2005, campus ở Nam Sài Gòn được xây xong với vốn đầu tư 20 triệu USD. Cho tới 2012, RMIT Vietnam đã có 5145 sinh viên, đưa RMIT trở thành campus lớn nhất của một trường đại học ở nước ngoài tính trên phạm vi toàn thế giới (xem bảng sau)

Bảng 4: Các chi nhánh/campus lớn nhất ở nước ngoài của các đại học

TT Tên chi nhánh của đại học Số sinh viên đại học Số sinh viên sau đại học Tổng
1 RMIT (Vietnam) 5,000 145 5,145
2Monash University (Malaysia)

5,000 (xấp xỉ)
3 University of Nottingham (Ningbo, Trung Quốc) 4,069 467 4,536
4AMA International University (Bahrain)

3,945(2008-09)
5 University of Nottingham (Malaysia) 2,968 811 3,779
6 Xi’an Jiaotong-Liverpool University (Trung Quốc) 3,200 40 3,240
7 Curtin University (Malaysia) 3,000 80 3,080
8Limkokwing University of Creative Technology (Botswana)

3,040
9 Wollongong (Dubai) 1,500 1,500 3000
10 Monash University (Nam Phi) 2,662 23 2,685
11 Temple University (Nhật Bản) 2,128 411 2,539
12 Heriot-Watt University (Dubai) 2,000 500 2,500
13 Swinburne University of Technology (Malaysia) 2,350 40 2,390
14 James Cook University (Singapore) 1,000 1,200 2,200
15 University of Newcastle (Singapore) 2,000 100 2,100

Tổng: 31,900 Tổng: 5,320 Tổng: 49,180

Nguồn: Observatory on Borderless Higher Education, 2012

Đến 2014, số sinh viên của RMIT Vietnam là hơn 6.000. RMIT đặt mục tiêu đạt mức 15.000 sinh viên vào năm 2020. Trường này cũng đang lên kế hoạch đầu tư trụ sở đào tạo mới tại Hà Nội với 100% vốn đầu tư từ RMIT Australia. RMIT cũng sẽ xây dựng một tòa nhà bên cạnh campus ở quận 7, TP.HCM vào năm 2017. Trong năm 2014, RMIT Việt Nam sẽ đầu tư khoảng 10 triệu USD để nâng cấp campus hiện tại ở TP.HCM. Sau thành công của RMIT Việt Nam, năm 2013 RMIT đã mở cơ sở tiếp theo của mình ở nước ngoài tại Barcelona, Tây Ban Nha.

Tóm tắt phần 2.2: Sự thành công của RMIT Việt Nam sau hơn 10 năm hoạt động cho thấy chủ trương thu hút các trường đại học quốc tế mở campus ở Việt Nam là đúng đắn. Không dùng bất kỳ một đồng vốn ngân sách nào, Việt Nam đã có một đại học đẳng cấp thế giới (RMIT nằm trong Top 300 theo bảng xếp hạng của QS World, xếp thứ 93 trong số 100 đại học trẻ dưới 50 tuổi). RMIT Vietnam đã trở thành một đại học đầy đủ xếp hạng cao nhất trong nước, với bằng cấp có giá trị quốc tế. Sự thành công của RMIT có bao gồm một số yếu tố may mắn và thuận lợi, các trường đi sau có thể xem xét học tập. Bài học về khung pháp lý cho sự ra đời của RMIT năm 2000 cũng cần được xem xét để ban hành các hướng dẫn cụ thể cho Nghị định 73/2012 (đã thay thế Nghị định 18/2001), tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư FDI vào lĩnh vực giáo dục đại học.

2.3. Các trường đại học xuất sắc/đẳng cấp quốc tế

Ý tưởng đại học đẳng cấp quốc tế được chính thức khởi xướng trong chuyến công tác của Thủ tướng Phan Văn Khải tới Hoa Kỳ tháng 6/2005. Trong chuyến đi đó, Thủ tướng đã tới thăm đại học Harvard và MIT ở Boston, và tham dự hội thảo “Làm thế nào để tăng cường khả năng cạnh tranh trong môi trường toàn cầu hiện nay” để gặp gỡ bàn tròn với đại diện ĐH Harvard, MIT, Quỹ giáo dục Việt Nam, Viện Yenching, Quỹ Hanry Luce, Open Society Institute, Atlantic Philanthropies, Ngân hàng Thế giới… để bàn về xây dựng trường ĐH tầm cỡ quốc tế tại Việt Nam. Tuy nhiên lúc đó tất cả đều chưa rõ định hướng sẽ làm thế nào, và làm với sự hỗ trợ của quốc gia/đối tác nào để Việt Nam có được đại học tầm cơ quốc tế.

Hình 1: Thủ tướng Phan Văn Khải đến thăm và chụp ảnh với tượng ông John Harvard trong khuôn viên đại học Harvard (Nguồn Vietnamnet, 2005)

Sau khi về nước, đầu năm 2006, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký quyết định thành lập Tổ công tác xây dựng đề án thành lập trường đại học đẳng cấp quốc tế tại Việt Nam, và cử ông Trần Xuân Giá, Trưởng ban nghiên cứu của Thủ tướng làm Tổ trưởng Tổ công tác này. Tổ gồm 16 thành viên, có nhiệm vụ xây dựng Đề án thành lập trường ĐH đẳng cấp quốc tế. Sau khi Đề án được phê duyệt, Tổ công tác tiếp tục giám sát, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá tình hình triển khai thực hiện.

Sau vài tháng làm việc, bản đề án được hoàn thành và Thủ tướng Phan Văn Khải ký quyết định 145/2006/QĐ-TTg ngày 20/6/2006 về chủ trương và những định hướng lớn xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế của Việt Nam. Quyết định này chỉ nêu tiêu chí và phương thức xây dựng các trường, không bao gồm số lượng trường, quốc gia và cách thức hợp tác, nguồn vốn huy động bên ngoài như thế nào. Tuy nhiên Quyết định nêu rõ, tổ công tác xây dựng Đề án khả thi trình Thủ tướng phê duyệt vào quý I năm 2007, sau đó “Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án khả thi; quyết định cơ chế tổ chức và hoạt động của trường; thành lập Ban Quản lý dự án xây dựng trường gồm một số nhà khoa học và quản lý có uy tín của nước ta (kể cả người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài), mời một số nhà khoa học nước ngoài có kinh nghiệm xây dựng và quản lý đại học đẳng cấp quốc tế tham gia”.

Sau khi ký Quyết định này 1 tuần thì Thủ tướng Phan Văn Khải nghỉ hưu (27/6/2006). Ban nghiên cứu của Thủ tướng được giải tán sau đó 1 tháng vào tháng 7/2006. Cùng thời gian này, vị trí bộ trưởng giáo dục có sự thay đổi từ GS Nguyễn Minh Hiển sang GS Nguyễn Thiện Nhân do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề bạt ngày 28/6/2006. Kế hoạch đại học đẳng cấp quốc tế bước sang một chương mới, với sự tham gia và định hướng rõ rệt của GS Nguyễn Thiện Nhân trong vai trò Bộ trưởng Giáo dục và Phó thủ tướng Chính phủ (từ 2/8/2007). Không có một bản đề án khả thi nào được trình Thủ tướng phê duyệt như Quyết định 145 đã nêu, tuy nhiên định hướng và các bước chuẩn bị đã trở nên rõ ràng hơn trong nhiệm kỳ mới của Chính phủ.

Cuối năm 2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (Chủ tịch Hội đồng quốc gia giáo dục) quyết định xây dựng 4 đại học đẳng cấp quốc tế, với cam kết tài trợ vốn của WB và ADB (Vietnamnet, 2009).

Đại học Việt Đức

Năm 2007, Bộ trưởng giáo dục, GS Nguyễn Thiện Nhân, bằng quan hệ cá nhân của mình[3]  đã trao đổi với Bang Hessen của CHLB Đức và được họ đồng ý hỗ trợ xây dựng trường ĐH Việt Đức. Năm 2008, trường ĐH Việt Đức (VGU) được thành lập với hình thức là đại học công lập 100% (không phải hình thức đầu tư nước ngoài hay liên kết đào tạo).
Cơ sở tạm thời của VGU đặt ở Thủ Đức TPHCM, và campus tương lai sẽ xây dựng ở Bình Dương. Theo yêu cầu của Chính phủ Việt Nam, WB nghiên cứu cho Việt Nam vay để phát triển VGU. Khoản vay được ký kết năm 2009, thực hiện trong vòng 7 năm từ 2010-2017. WB cho vay 180 triệu USD, Việt Nam góp vốn đối ứng 20 triệu (Ngân hàng Thế giới, 2010)
Khoản vay này sẽ có các hợp phần chính (1) xây dựng cơ sở hạ tầng gồm 5 khu chức năng theo tiêu chuẩn châu Âu (108,6 triệu USD, do Ban QLDA của Bộ GDĐT thực hiện), (2) xây dựng khung chính sách và quản trị nhà trường (6,2 triệu USD), phát triển đào tạo và nghiên cứu khoa học, thiết bị chuyên môn (36,1 triệu USD, do Ban QLDA của chính VGU thực hiện)

Hỗ trợ của Đức:

Bộ giáo dục Liên bang (BMBF) cung cấp 6,7 triệu Euro viện trợ không hoàn lại cho giai đoạn 2008-2012 để chi trả chi phí cho cán bộ quản lý và giảng viên Đức. BMBF cũng cung cấp 500.000 USD cho việc xây dựng báo cáo nghiên cứu khả thi (FS).
Bang Hessen: đóng góp 1,5 triệu Euro hàng năm từ ngân sách giáo dục của bang để các đại học của bang này tham gia: (i) nâng cao năng lực cho cán bộ VGU, (ii) thiết lập và vận hành một trung tâm nghiên cứu vào 2010, (iii) hỗ trợ các đại học Đức giảng dạy tại VGU, (iv) hỗ trợ bằng hiện vật để trả lương cho Hiệu trưởng của VGU và trợ lý.
Bang Baden-Wurttemberg: đóng góp 300.000 Euro hàng năm cho 5 năm từ 2010-2015, dùng để tài trợ cho chương trình Master về Mechatronics and Sensor System Technology.
Liên minh VGU: là liên minh các đại học Đức, là xương sống về mặt học thuật cho VGU. Là một tổ chức phi lợi nhuận, liên minh này thành lập và đăng ký ở Bonn với 32 đại học và một số cá nhân. Nhiệm vụ của Liên minh là hỗ trợ cho VGU về học thuật và hành chính, đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu.

Hiện nay lương của giảng viên Đức hoàn toàn do phía Đức chi trả, nhưng lộ trình sẽ giảm dần.

Về dài hạn VGU sẽ định hướng thành đại học nghiên cứu, tập trung vào khoa học công nghệ chứ không phải đại học tổng hợp đa ngành (một số ngành Đức có thể giúp đỡ), tập trung vào đào tạo sau đại học.
Sinh viên: đầu vào tuyển riêng theo phương pháp của Đức đề xuất. Đào tạo bằng tiếng Anh, tiếng Đức là ngoại ngữ được dạy thêm ở trường. Năm cuối cùng sinh viên được sang Đức. Bằng cấp ban đầu do Đức cấp, sau này sẽ do chính VGU cấp (và được phía Đức công nhận).

Điều lệ của VGU được Thủ tướng thông qua 28/3/2008. Đây là trường đại học công lập đầu tiên của Việt Nam có sự hỗ trợ chính thức của một quốc gia. VGU là trường tiên phong trong số các đại học tiên tiến mô hình mới của Chính phủ. Theo Điều lệ của trường, Hội đồng trường là cơ quan quản lý cao nhất, bao gồm 10 người Đức và 10 người Việt. Hiệu trưởng là người Đức và báo cáo trực tiếp cho Hội đồng trường.

Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (Đại học Việt Pháp)

Bên cạnh dự án VGU, một dự án khác là ĐH Khoa học công nghệ Hà Nội (USTH) được triển khai sau VGU khoảng 1 năm. USTH được thành lập theo Quyết định số 2067/QĐ-TTg ngày 9/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở Hiệp định hợp tác cấp Chính phủ giữa Việt Nam và Pháp, trong đó Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam là đối tác chiến lược trong nước và Liên minh gồm hơn 60 trường ĐH của Pháp làm đối tác chiến lược nước ngoài.

Trường đang được xây dựng trên khuôn viên rộng 65ha nằm trong khu Công nghệ cao Hòa Lạc với tổng vốn đầu tư là 210 triệu USD (3.720 tỷ đồng), trong đó vốn vay ODA từ Ngân hàng ADB là 190 triệu USD và vốn đối ứng của Chính phủ là 20 triệu USD, thực hiện trong giai đoạn từ 2011 – 2017 (Ngân hàng phát triển châu Á, 2011).

Các ngành đào tạo hiện nay bao gồm công nghệ sinh học/dược học, nước/môi trường, công nghệ vật liệu/công nghệ nano, công nghệ thông tin và truyền thông, năng lượng, khoa học hàng không và không gian. Hệ thống đào tạo theo Bologna Process của châu Âu.

Ngân sách của USTH trong giai đoạn 2010-2020 như sau:

Đóng góp của Việt Nam (210 triệu Euro):

60 triệu USD ngân sách hoạt động thường xuyên

7 triệu USD hỗ trợ học bổng nghiên cứu sinh Việt Nam tại Pháp

190 triệu USD vay của ADB, 23 triệu vốn đối ứng từ Chính phủ trong đó bao gồm các khoản “phần mềm” ngoài việc xây dựng campus như sau:

5,4 triệu USD: Xây dựng hệ thống quản lý và quản trị

49,8 triệu USD: Xây dựng các chương trình đào tạo

(bao gồm 38 triệu USD mua thiết bị phòng thí nghiệm)

Đóng góp của Pháp khoảng 100 triệu Euro:

40 triệu € đào tạo 400 tiến sỹ : 2010-20

30 triệu € xây dựng và hoạt động 6 trung tâm nghiên cứu 6 Unités Mixtes Internationles

30 triệu € gửi giảng viên/giáo sư hỗ trợ 6 chương trình thạc sỹ tại USTH

2 triệu € của Bộ ngoại giao tài trợ cho việc mua thiết bị thí nghiệm

5 triệu € cho 3 vị trí của Chính phủ Pháp

Hiệu trưởng (2010) (Bộ ngoại giao)

Giám đốc học vụ (2012) (Bộ giáo dục)

Giám đốc nghiên cứu (2012) (Bộ ngoại giao)

Hội đồng trường có 10 người Việt và 10 người Pháp, Chủ tịch là GS Phạm Vũ Luận, bộ trưởng Bộ GDĐT, các thành viên là thứ trưởng một số bộ, Giám đốc ĐHQGHN. Phía Pháp có một số quan chức và Chủ tịch một số trường.

Tiến độ triển khai dự án ADB là khá chậm, tương tự như dự án WB của VGU. Hiện vẫn đang trong giai đoạn tuyển các nhà thầu thiết kế và xây lắp. Việc xây dựng campus chưa thực sự được bắt đầu.

Đại học Việt Nhật

Đề án đại học Việt Nhật được bắt đầu nghiên cứu vào năm 2012 với sự hỗ trợ tài chính của Nhật Bản. Đơn vị chủ trì của Việt Nam có thể là Bộ Khoa học Công nghệ, là chủ đầu tư của Khu công nghệ cao Hòa Lạc (do Nhật Bản tài trợ ODA), nơi dự kiến đặt ĐH Việt Nhật.

Đầu năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý bản đề án và chủ trương thành lập Trường Đại học Việt Nhật. Đại học quốc gia Hà Nội (VNU) đã được giao chủ trì dự án này. ĐH Việt Nhật sẽ là trường đại học công lập, thành viên của VNU, đối tác là các trường đại học Nhật Bản.

Theo đề án, Đại học Việt Nhật là đại học đa ngành đào tạo cả hai lĩnh vực khoa học công nghệ và khoa học xã hội nhân văn, đào tạo đại học và sau đại học Trường đặt mục tiêu đến năm 2025 được xếp trong nhóm 50 trường đại học hàng đầu châu Á. Quy mô đào tạo khoảng 6.000 sinh viên, trong đó sinh viên cao học khoảng 2.400 người, ở các ngành: khoa học và kỹ thuật; y tế, y tá, điều dưỡng; nông nghiệp; tiếng Nhật; Luật và kinh tế, quản trị kinh doanh. Ngôn ngữ giảng dạy là tiếng Nhật và có kết hợp với các nội dung bằng tiếng Anh.

Tổng vốn đầu tư xây dựng Trường ĐH Việt Nhật dự kiến khoảng 330 triệu đô la Mỹ, bao gồm: Vốn ODA từ Chính phủ Nhật Bản: hơn 200 triệu đô la Mỹ, Vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam: khoảng 30 triệu đô la Mỹ và vốn tài trợ từ các doanh nghiệp, tổ chức Nhật Bản: khoảng 100 triệu đô la Mỹ.

Campus dự kiến đặt tại tại 3 địa điểm (Khu công nghệ cao Hòa Lạc, khu ĐHQGHN tại Hòa Lạc, khu ĐHQGHN tại 144 Xuân Thủy, Hà Nội) với đầu tư trang thiết bị ngang tầm với các trường đại học hàng đầu trong khu vực.

Đại học Việt Anh

Ý tưởng thành lập một đại học tiên tiến với sự hỗ trợ của Anh được bắt đầu từ năm 2011. Phía Việt Nam chịu trách nhiệm chính về huy động kinh phí cho dự án. Chính phủ Anh (với đại diện là Hội đồng Anh/British Council) đóng vai trò là nhà tài trợ gián tiếp và hỗ trợ tìm kiếm các nguồn lực tài chính từ các trường ĐH, doanh nghiệp Anh và các tổ chức tín dụng quốc tế khác cho dự án. Chính phủ Việt Nam đã đồng ý bố trí khoản ngân sách 200 tỉ đồng để hỗ trợ ban đầu cho việc triển khai dự án.

Mục tiêu đặt ra ban đầu là thành lập Trường ĐH công lập đẳng cấp quốc tế Việt – Anh trên cơ sở nâng cấp ĐH Đà Nẵng. Dự án sẽ góp phần đổi mới, xây dựng ĐH Đà Nẵng trở thành ĐH theo tiêu chuẩn quốc tế trên cả hai lĩnh vực đào tạo và quản lý tại Việt Nam.

Vì nguồn vốn hạn chế và không có đối tác tài trợ từ khu vực công rõ ràng như các dự án Việt Đức, Việt Pháp nên tiến độ của dự án Việt Anh triển khai khá chậm. Dự kiến bước tiếp theo sẽ là thành lập Viện Đào tạo và Nghiên cứu Việt-Anh nằm trong Đại học Đà Nẵng, khi có đủ điều kiện sẽ phát triển Viện Nghiên cứu và Đào tạo Việt-Anh thành Trường Đại học Việt-Anh.

Trong giai đoạn này, Đại học Aston ở TP Birmingham đóng vai trò đại diện các đại học của Anh để làm việc trực tiếp với ĐH Đà Nẵng. Dự kiến ĐH Aston sẽ đào tạo một số Ph.D cho Đà Nẵng từ  năm 2014. Thông qua đầu mối của British Council, Đại học Aston với tài trợ của công ty Rolls Royce International đã triển khai một số khóa đào tạo về leadership cho Đại học Đà Nẵng (Aston University, 2013).

Đại học Fulbright Việt Nam (Đại học Việt Mỹ)

Bắt đầu từ năm 1989, Dwight H. Perkins (Giám đốc Harvard Institute for International Development), Thomas Vallely (Giám đốc Chương trình Việt nam) và David Dapice là những nhân sự của Đại học Harvard đã tham gia các hoạt động đào tạo, các chuyến tham quan nước ngoài về quản lý kinh tế cho giới chức Việt Nam thông qua các chương trình/dự án của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP). Học viên của các chương trình này gồm các cán bộ cao cấp về quản lý kinh tế, bộ trưởng, và cả các lãnh đạo như ông Phan Văn Khải (lúc đó là Phó thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước). Ngoài nhóm các học giả/nhà kinh tế của Harvard, ban tổ chức còn mời một số giảng viên thỉnh giảng cao cấp của các nước khu vực tới thuyết trình, trong đó có cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu của Singapore (John S. Rosenberg, 2014).

Năm 1992, các thượng nghĩ sỹ Mỹ là John Kerry và John McCain bắt đầu sáng kiến cung cấp học bổng Fulbright cho Việt Nam. Vì lúc đó Mỹ chưa bỏ lệnh cấm vận và chưa có đại sứ quán Mỹ ở Việt Nam, các chuyên gia của Harvard nói trên đã đóng vai trò quản lý chương trình học bổng này trong những năm đầu tiên. Một trong những học viên đầu tiên nhận học bổng để tới học tại Harvard Kennedy School năm 1993 là Mr. Cao Đức Phát (hiện là Bộ trưởng Nông nghiệp và phát triển nông thôn). Để tiếp tục nỗ lực chuyển giao các kiến thức quản lý kinh tế cơ bản, các chuyên gia của Harvard lên kế hoạch tổ chức một chương trình đào tạo tại chỗ. Đối tác được lựa chọn là Đại học Kinh tế TPHCM, và Chương trình Fulbright Economics Teaching Program (FETP) đã được triển khai từ năm 1994.

Từ năm 1995-2003, với sự tài trợ của Quĩ Fulbright, FETP được triển khai giai đoạn 1 với khoản kinh phí từ 1 – 1,2 triệu USD/năm. Giai đoạn 2 (2004-2009) và giai đoạn 3 (2011-2016) cũng đã được ký kết với khoản viện trợ không hoàn lại từ Quỹ Fulbright.

Về chương trình đào tạo, FETP bắt đầu với chương trình dài hạn 10 tháng dựa trên chương trình của Harvard Kenney School. Từ năm 2008, FETP đã nâng cấp chương trình đào tạo thành Thạc sĩ Chính sách công do trường Đại học Kinh tế TP.HCM cấp bằng. Các ví dụ / nghiên cứu tình huống cũng đã được FETP xây dựng từ chính thực tiễn Việt Nam. Ngoài một số giảng viên người Mỹ, nhiều giảng viên Việt Nam được đào tạo ở nước ngoài đã được FETP tuyển dụng. Các bài giảng và học liệu tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt, và một số lượng lớn đã được đưa lên trang web của FETP dưới dạng đào tạo online, tăng sự ảnh hưởng của chương trình (hiện có khoàng 100,000 lượt download hàng tháng). Học viên của FETP chủ yếu là cán bộ quản lý nhà nước và doanh nghiệp đến từ các tỉnh thành phố ngoài TPHCM, đặc biệt là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nơi cơ hội học nước ngoài là thấp hơn những người ở các thành phố lớn.

Năm 2008, theo đề nghị của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chương trình Việt Nam của Harvard với sự tài trợ của UNDP đã chuẩn bị một báo cáo chính sách “Lựa chọn thành công”[4] phân tích hiện trạng phát triển kinh tế và khuyến nghị định hướng chính sách cho kinh tế Việt Nam 2010-2020. Một số dự báo/nhận định trong báo cáo này đã được kiểm chứng là đúng trong thực tế, và được một số giới chức Việt Nam đánh giá cao. Tiếp theo báo cáo này, UNDP tiếp tục tài trợ cho Chương trình lãnh đạo quản lý cấp cao (VELP) đưa các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam (do một Phó Thủ tướng dẫn đầu) sang trao đổi tại Harvard Kennedy School, mỗi lần kéo dài một tuần để bàn về các vấn đề phát triển KTXH, năng lực cạnh tranh của Việt Nam và toàn cầu hóa. VELP đã và đang được triển khai một số đợt từ cuối năm 2008 đến nay.

Trong chuyến thăm Mỹ năm 2013 của Chủ tịch Trương Tấn Sang, tổng thống Mỹ Obama và Chủ tịch Sang cùng đánh giá cao kết quả của FETP và nhất trí về mặt nguyên tắc việc chuyển FETP thành một đại học độc lập, có tên là Fulbright University Vietnam. Đây sẽ là một đại học tư nước ngoài, phi lợi nhuận hoạt động theo tiêu chuẩn quốc tế đầu tiên ở Việt Nam. Có thể gọi không chính thức trường này là đại học Việt Mỹ.

Thomas Vallely, người có công lớn với Chương trình Việt Nam và FETP trong 25 năm qua[5], đã chuyển sang đảm nhiệm cương vị mới là Chủ tịch Quỹ đổi mới đại học Việt Nam (Trust for University Innovation in Vietnam), một quỹ vận động tài trợ nhà nước và tư nhân cho đại học Fulbright (các thành viên có Leon Botstein, Chủ tịch Bard College, và Marshall Carter, cựu chủ tịch của New York Stock Exchange). Một người ủng hộ tích cực cho dự án này là cựu TNS John Kerry, hiện là Ngoại trưởng Hoa Kỳ.

Tuy nhiên với khung pháp lý hiện không rõ ràng và chưa bao gồm loại hình đại học tư nước ngoài phi lợi nhuận như Fulbirght University Việt Nam, dự kiến quá trình làm thủ tục và xin phép của trường này sẽ mất không ít thời gian.

Đánh giá chung về các đại học đẳng cấp quốc tế

1. Số lượng sinh viên tuyển được thấp so với dự kiến:

Phần này chỉ xem xét 2 trường VGU (Việt Đức) và USTH (Việt Pháp) vì các đại học khác chưa thành lập và chính thức tuyển sinh.

Khóa đầu tiên năm 2008, VGU tuyển được 25 sinh viên hệ đại học. Nhìn chung cho tới nay, VGU gặp nhiều khó khăn để tuyển đủ số lượng sinh viên. Năm 2013 VGU có 750 sinh viên, học viên thuộc 7 chương trình đào tạo bậc cao học và 3 chương trình đào tạo bậc ĐH, mục tiêu năm 2014 là 1.000 sinh viên. Con số này chênh lệch khá xa so với mục tiêu ban đầu là đạt 5.000 sinh viên trong 29 chuyên ngành vào năm 2020.

Năm học đầu tiên 2010 – 2011, USTH đã tuyển sinh khóa đầu với 20 SV ĐH  ở 2 chuyên ngành là Công nghệ sinh học – dược học và Khoa học công nghệ môi trường và 40 học viên cao học. Quy mô đào tạo năm học 2011 – 2012 của trường là 171 SV và học viên cao học. Hiện nay trường có khoảng 400 SV đang theo học.

Một lý giải là hai trường ĐH Việt Đức và Việt Pháp đều thu học phí tương đối cao, vì vậy khó tuyển được sinh viên có chất lượng. Những học sinh giỏi sẽ chọn các trường ĐH có tên tuổi với học phí thấp để theo học. Những học sinh khá có khả năng tài chính sẽ đi học ở nước ngoài.

Một vấn đề đáng lo ngại là chất lượng đầu vào. Điểm chọn vào VGU và USTH ở những khoá đầu tiên chỉ xấp xỉ điểm sàn quy định của Bộ GD-ĐT vào ĐH. Hiện nay, mức điểm này đối với các thí sinh dự thi theo hình thức “3 chung” có cải thiện hơn, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với các trường ĐH kỹ thuật hàng đầu của Việt Nam như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Xây dựng, ĐH Bách Khoa TPHCM…

Có thể lý giải nữa là hiện nay campus chính của cả VGU và USTH đang được xây dựng, sinh viên đang phải học trong các cơ sở tạm không tiện nghi và đầy đủ. Phải đợi đến khi campus xây xong mới đánh giá đúng được, giống trong trường hợp RMIT xây campus ở Nam Sài Gòn đến năm 2005 mới hoàn thành và số lượng sinh viên trong các năm 2003-2005 là chưa nhiều.

Định hướng tập trung vào đào tạo sau đại học của VGU (và có thể USTH) là sai lầm. Giáo dục bậc đại học (undergraduate) mới là yếu tố căn bản để đạo tạo nhân lực có trình độ phù hợp với nền kinh tế hiện đại dù là cho công nghiệp sản xuất hay dịch vụ. Đại học Yale-NUS ở Singapore là một ví dụ về trường khai phóng tập trung vào đào tạo bậc đại học. Nếu làm giáo dục đại học tốt, sinh viên sẽ có đủ kiến thức cơ bản nói chung và kiến thức kỹ năng cần thiết nhất của một nghề nghiệp nhất định. Tùy vào yêu cầu công việc hay sở thích cá nhân, sinh viên tốt nghiệp ĐH có thể tự học thêm vì đã có căn bản tốt. Để giáo dục ĐH tốt, tất nhiên trường phải làm nhiều nghiên cứu hay đơn giản là làm nhiều với công nghiệp (industry) hay các công ty ở ngoài để sinh viên một mặt quen với công việc ngoài thực tế, mặt khác có thêm các quan hệ để tạo điều kiện hướng nghiệp sau khi ra trường. Đối với các ngành kỹ thuật công nghệ đây là khâu bắt buộc.

2. Sự đóng góp của yếu tố nước ngoài

Về tài chính: mô hình này có thành công ở điểm đã huy động được đóng góp nước ngoài về tài chính cho giáo dục đại học Việt Nam, cụ thể Việt Pháp khoảng 100 triệu Euro, Việt Đức khoảng 20 triệu Euro. Tuy nhiên các tài trợ này (cụ thể là Đức và Pháp) chủ yếu dưới dạng “phần mềm” trong một giai đoạn khoảng 5-10 năm, chỉ để trả lương cho các giảng viên và quản lý nước ngoài. Phần đầu tư cho xây dựng trường và cho chi phí hoạt động khác là không đáng kể.

Về khả năng đạt được mục tiêu “đẳng cấp quốc tế”: sự tham gia của các đại học nước ngoài không đảm bảo thực hiện được mục tiêu này. Thực tế cho thấy 11 trường ở nước ngoài hợp tác với Đức giống VGU chưa có trường nào xếp thứ hạng cao (chỉ xét Top 500 hay 1000), dù một số trường đã hoạt động được khoảng 10 năm. Ngay cả các trường đại học Pháp còn đang vật lộn với quá trình sắp xếp lại và quốc tế hóa của mình, thể hiện ở thất bại của Chính phủ Pháp trong dự án PRES khởi động từ năm 2006 nhằm sáp nhập các đại học, các trường lớn (grandes ecoles) và các trung tâm nghiên cứu nhằm tạo nên những cơ sở giáo dục đại học có thứ hạng cao trên bảng xếp hạng quốc tế. Chưa có cơ sở rõ ràng nào để chứng tỏ rằng các đại học Việt Pháp hay Việt Đức có thể đạt thứ hạng cao trên thế giới vào năm 2020 hay 2025 như mục đích đã đặt ra ban đầu. Với Đại học Việt Nhật, việc hợp tác trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn cần được xem xét kỹ, vì đó không phải là lĩnh vực mạnh của các đại học Nhật Bản: trong danh sách 150 trường hàng đầu thế giới về KHXH & nhân văn, không có trường nào của Nhật Bản.

Về quản trị và quản lý: các thành viên tham gia hội đồng trường của VGU và USTH là các quan chức và một số chủ tịch đại học. Hiệu trưởng là người Đức và Pháp. Tuy nhiên hiểu biết của họ về thực tiễn của các nước đang phát triển, và đặc biệt là về Việt Nam là rất hạn chế, và chưa có cơ sở gì chứng tỏ họ có thể góp phần định hướng, xây dựng chiến lược và thực hiện việc phát triển các trường này để đạt được mục tiêu đề ra.

Liên minh các đại học nước ngoài: cách hợp tác với Liên minh nhiều trường đại học một lúc (30 trường của Đức và 60 trường của Pháp) có ưu điểm là huy động được nguồn lực của nhiều trường cùng lúc, tuy nhiên nhược điểm lớn nhất của cách làm này là sẽ không có trường đầu tàu chịu trách nhiệm thực sự và tâm huyết lâu dài. Cách làm kiểu “hợp tác xã” đại học này mang ý nghĩa “hữu nghị” và “ngoại giao” nhiều hơn. Ngay cả khi một đại học đầu tư tài chính và công sức của mình xây dựng một campus ở nước ngoài và sở hữu nó ở mức độ cao nhất, chưa có gì bảo đảm campus của họ sẽ thành công và đạt đẳng cấp quốc tế. Còn với cách làm hiện nay theo “hiệp định chính phủ” có thời hạn (5-10 năm) với hàng chục trường tham gia thì rất khó khai thác và phát huy sức mạnh của từng trường vì mỗi trường có triết lý, phương pháp hay cách làm riêng của mình.

Về giảng viên: Mối liên hệ giữa các giảng viên Đức và Pháp ở VGU và USTH với các trường đại học của họ ở châu Âu là rất lỏng lẻo, khi ở Việt Nam họ chỉ tập trung vào việc giảng dạy các khóa học đơn lẻ, có ít động lực để nghiên cứu khoa học, phát triển chương trình như đang làm ở châu Âu. Bên cạnh đó, việc đưa các giáo sư hàng đầu ở châu Âu sang Việt Nam là rất khó sẽ xét về mặt hấp dẫn thu nhập và cơ hội phát triển học thuật, nghề nghiệp trong lĩnh vực kỹ thuật công nghệ. Với các ngành ĐH Kỹ thuật như của VGU và USTH, giảng viên nước ngoài với sự hạn chế về ngôn ngữ truyền đạt cũng như kinh nghiệm quốc tế chưa chứng tỏ được sự vượt trội so với giảng viên Việt Nam. Hiện nay đã có khá nhiều giảng viên người Việt học hành bài bản ở nước ngoài và có kinh nghiệm giảng dạy/làm việc có đủ khả năng làm giảng viên các trường này. Vấn đề là cần có cơ chế và thu nhập thỏa đáng. USTH đã đề xuất lương cho giảng viên trong nước (là các tiến sỹ đào tạo ở Pháp) ở mức 1000 USD/tháng nhưng chưa được chấp nhận.

Về ngôn ngữ: ngôn ngữ truyền đạt là một vấn đề cần quan tâm. Với VGU, kỹ năng tiếng Anh của các giảng viên kỹ thuật người Đức thường chưa đủ tốt cho mục đích giảng dạy hay các mục đích khác đòi hỏi nhiều khả năng ngôn ngữ như lãnh đạo hay tư vấn (thực tế kỹ sư Đức rất hiếm làm lãnh đạo ở các tập đoàn hay tổ chức quốc tế, trừ khi là công ty Đức. Kỹ năng tiếng Anh của những người làm kỹ thuật Đức kém xa các đồng nghiệp Hà Lan, Thụy điển hay các nước Bắc Âu khác, không nói đến các nước nói tiếng Anh). Việc truyền đạt bằng tiếng Anh ở VGU có thể là một rủi ro. Trường USTH Việt Pháp có thể gặp vấn đề tương tự. Đối với ĐH Việt Nhật, nếu giảng dạy bằng tiếng Nhật sẽ tạo thêm gánh nặng và khó khăn cho học viên Việt Nam, và hạn chế việc mở rộng/giao lưu với cộng đồng đại học thế giới sau này. Còn nếu giảng bằng tiếng Anh thì sẽ khó cho các giảng viên Nhật Bản, ngay các trường Nhật Bản còn đang chật vật với chương trình Global 30 của Thủ tướng Abe nhằm thu hút sinh viên nước ngoài tới 13 trường của Nhật giảng dạy bằng tiếng Anh.

3. Sự tham gia không hợp lý của các nhà tài trợ ODA (WB và ADB)

WB đã tài trợ cho nhiều dự án giáo dục đại học trên khắp thế giới. Tuy nhiên dự án gần nhất mà WB tài trợ trực tiếp cho việc xây dựng campus ở một quốc gia là hơn 20 năm trước. Với chiến lược giai đoạn vừa qua của WB thì rất khó lý giải việc ngân hàng này tài trợ hơn 100 triệu USD cho hợp phần xây dựng một campus đại học hiện đại (Đại học Việt Đức) với các đầu ra và kết quả có nhiều rủi ro. Ngay cả 2 dự án giáo dục đại học đã hoàn thành của WB ở Việt Nam, dù chỉ tập trung vào tăng cường thể chế và năng lực (và 1 phần nhỏ cho thiết bị thí nghiệm, công nghệ thông tin, nghiên cứu, thư viện.. của các đại học), cũng chưa chứng tỏ được nhiều hiệu quả của mình. Sẽ tốt hơn nếu WB tiếp tục tài trợ phần vốn hạn chế của mình (so với nhu cầu rất lớn của giáo dục đại học nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung) cho mục tiêu nâng cao năng lực đào tạo/nghiên cứu khoa học, phát triển thể chế và quản trị cho hệ thống giáo dục đại học.

Đại học Khoa học  và Công nghệ Hà Nội (USTH) là dự án đầu tiên của ADB trong lĩnh vực giáo dục đại học ở Việt Nam, dù ngân hàng này đã cho vay một số dự án khác về dạy nghề và giáo dục phổ thông. Việc ADB tài trợ cho việc xây dựng cơ sở vật chất của USTH cũng là khó lý giải xét về mục tiêu và chiến lược hoạt động của họ ở Việt Nam và châu Á. Việc dùng tới 170 triệu USD vốn OCR thông thường (nguồn vốn ít ưu đãi, lãi suất thị trường trên cơ sở LIBOR++), chỉ có 20 triệu USD vốn ADF[6] ưu đãi hơn, cho một dự án với khả năng sinh lời tài chính thấp như Đại học USTH cũng là một điểm khó hiểu, có thể là biểu hiện cho việc chiến lược và kế hoạch dài hạn của ADB không bao gồm dự án này và ADB chỉ cung cấp vốn tài trợ ít ưu đãi cho USTH theo yêu cầu đột xuất của Việt Nam.

Việc phối hợp và chia sẻ thông tin giữa hai dự án của WB và ADB là một vấn đề. Sẽ là lãng phí và không hiệu quả khi hai dự án cùng với Bộ GDĐT lại có hàng chục triệu USD đầu tư cho cùng một mục tiêu là xây dựng khung chính sách quản trị, phát triển đào tạo và nghiên cứu. Hơn nữa, việc thực hiện 2 hợp phần này song song với việc các đối tác Đức và Pháp hỗ trợ về xây dựng năng lực đào tạo/nghiên cứu và quản trị có sự trùng lắp và không rõ ràng trong công tác phối hợp. Rõ ràng là các đối tác Đức, Pháp có triết lý và định hướng riêng của mình, rất khó hài hòa với ý đồ của các nhà tài trợ WB/ADB cùng với các nhóm tư vấn của họ.

4. Tổ chức triển khai không hợp lý và thiếu đầu tàu

ĐH Việt Đức là trường công lập 100%, nhưng vai trò định hướng từ phía chủ sở hữu là không rõ ràng. Phía Việt Nam, cụ thể là Bộ GDDT chưa thực sự đứng ra chịu trách nhiệm hay đưa ra yêu cầu muốn trường thế nào, hay nôm na là biết mình muốn gì. Trong giai đoạn đầu tiên, gần như Việt Nam phó mặc cho phía Đức hoàn toàn xây dựng chiến lược và chương trình khung đào tạo. Sau này khi có dự án WB vào thì có thêm tư vấn quốc tế cho hợp phần phát triển đào tạo và quản trị tham gia. Sự sở hữu (ownership) của bên Việt Nam là thấp, giống như trong một số dự án hợp tác với nước ngoài hay dự án ODA khác. Vai trò của Hội đồng trường về lý thuyết là quan trọng, tuy nhiên thực tế Hội đồng này do các quan chức của Bộ GDĐT và một số bộ ngành tham gia. Họ bận nhiều việc khác và bản thân cũng không có đủ kiến thức, kinh nghiệm để định hướng một đại học mô hình mới. Điều này cũng xảy ra gần tương tự đối với USTH. Khi có dự án ODA, ban chỉ đạo dự án bao gồm đại diện các bộ ngành trung ương, một năm họp 2 lần. Về mặt chiến lược hay định hướng thì khó mong chờ nhiều ở ban chỉ đạo vì cả lý do chuyên môn và thời gian.

Khi Thủ tướng Phan Văn Khải quyết định thành lập Tổ công tác Tổ công tác xây dựng đề án thành lập trường đại học đẳng cấp quốc tế tại Việt Nam năm 2006, Tổ công tác được giao nhiệm vụ giám sát việc triển khai dự án này. Tuy nhiên cùng với việc giải tán Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Tổ công tác cũng không còn hoạt động, dẫn tới việc thiếu một nhóm chuyên môn chuyên trách theo dõi công việc này.

5. Đầu tư dàn trải và không hiệu quả khi triển khai nhiều đại học đẳng cấp quốc tế cùng lúc

Với 2 dự án đang triển khai (Việt Đức, Việt Pháp) và một dự án sắp triển khai (Việt Nhật), lượng vốn ODA vay cho các trường này là gần 700 triệu USD, một con số rất lớn trong bối cảnh hiện nay.  Xét trong lĩnh vực giáo dục, đầu tư cho giáo dục đại học nhiều như vậy từ nguồn vay là không phù hợp về phân bổ nguồn lực, nhiều lĩnh vực rất thiếu vốn đầu tư như phổ thông, mầm non, dạy nghề… Nhà nước nên dành nguồn lực ít ỏi của mình cho các lĩnh vực, các địa phương khó khăn mà nguồn vốn đầu tư tư nhân không tham gia được. Giáo dục đại học với ví dụ thành công của RMIT không nên là nơi nhận đầu tư công rất lớn theo cách dàn trải và không trọng điểm như vậy.

Vốn đầu tư cho các đại học này lớn nhưng các yếu tố khác không phát triển tương ứng: quan trọng nhất là giảng viên và sinh viên. Các trường hiện nay đều thiếu giảng viên tiến sỹ, nhất là các giảng viên có trình độ và kinh nghiệm (dự án 20.000 tiến sĩ của Bộ GDĐT nhằm để giải quyết tình trạng này). Việc VGU và USTH tuyển được ít sinh viên (giống BVU) thể hiện mức độ cạnh tranh rất gay gắt trên thị trường giáo dục hiện nay, có thể nói cung đã vượt cầu về một số khía cạnh. Các trường đẳng cấp quốc tế này sẽ phải cạnh tranh với nhau, cạnh tranh với các trường công ở tốp trên khác như các đại học quốc gia, các đại học vùng, các trường tốt như Bách Khoa, Xây dựng, Giao thông, Kinh tế, Ngoại thương…. Về góc độ đầu tư, việc nhà nước đầu tư quá mạnh vào xây dựng một số đại học mới tạo ra hiệu ứng chèn lấn (crowding-out) làm giảm sức hút với đầu tư tư nước ngoài và đầu tư tư nhân, góp phần bóp chết nhanh hơn nhiều trường tư thục non trẻ và yếu ớt trong nước.

Tính bền vững về tài chính là một câu hỏi lớn. Sau khi các đối tác nước ngoài như Đức, Pháp không trả lương nữa và rút người khỏi Hội đồng trường/Ban giám hiệu/Faculty (theo lộ trình trong hiệp định tài trợ) thì các trường sẽ hoạt động như thế nào? Ngân sách dự trù 6 triệu USD một năm hiện nay cho mỗi trường USTH và VGU sẽ không đủ trang trải các chi phí vận hành bảo trì cơ sở vật chất thiết bị rất lớn cho campus hiện đại trị giá 200-300 triệu USD, chưa nói đến tiền trả lương giảng viên, nghiên cứu khoa học và các chi phí hoạt động rất tốn kém cho các trường chất lượng cao. Ngân sách nhà nước nhiều khả năng sẽ không gánh vác nổi các khoản này. Điều đó càng đúng trong bối cảnh hiện nay là ngân sách đang rất khó khăn, ngân sách cho giáo dục 2014 phải giảm 10% so với 2013. Nhiều dự án giáo dục trọng điểm không hoàn thành được, ví dụ xây dựng tòa nhà trung tâm đại học kinh tế quốc dân được Thủ tướng duyệt từ năm 2003, vốn đầu tư 1400 tỷ đồng, triển khai 10 năm mới xây xong 7 tầng thô và đã dừng 3 năm nay vì thiếu vốn. Dự án Làng đại học Đà Nẵng đã kéo dài tới 18 năm không hoàn thành được, một nguyên nhân chính là thiếu ngân sách đầu tư. Dự án xây dựng đại học quốc gia Hà Nội tại Hòa Lạc triển khai từ năm 2003, với vốn ước tính là 7000 tỷ đồng. Kế hoạch ban đầu là năm 2008 đã phải hoàn thành giai đoạn 1 và chuyển một số trường như Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Công nghệ lên Hòa Lạc, đến năm 2010 có 35.000 sinh viên học tại Hòa Lạc. Tuy nhiên một phần do khả năng triển khai dự án của ĐHQGHN không đảm bảo nên năm 2008 Chính phủ đã chuyển dự án về cho Bộ Xây dựng quản lý. Đến nay tiến độ triển khai dự án vẫn rất chậm và chưa biết bao giờ hoàn thành được cơ sở đầu tiên, trong đó một lý do quan trọng là vốn đầu tư rất thiếu và chậm. Với các nguồn lực như vậy, liệu việc giao cho ĐHQGHN chủ trì triển khai dự án ĐH Việt Nhật với vốn 6000 tỷ liệu có hợp lý và đúng thời điểm? Có trùng lắp với dự án của Bộ Xây dựng đang làm chủ đầu tư? Với chủ chương cắt giảm và thắt chặt chi tiêu công của Chính phủ cùng với dự báo tình hình ngân sách tiếp tục khó khăn trong các năm tới càng làm cho việc đầu tư mới cho giáo dục đại học thêm bất lợi.

Hộp 3. Ngân sách hoạt động một số đại học trẻ (dưới 50 năm) có đẳng cấp quốc tế

Trong một số cuộc hội thảo về đại học đẳng cấp quốc tế đã được tổ chức, Bộ GDĐT hay nhắc đến ví dụ một số quốc gia đã mạnh dạn đầu tư mạnh cho các trường mới để đạt đẳng cấp quốc tế trong một thời gian tương đối nhanh. Đó là:

ĐH Khoa học và công nghệ Hồng Kông (HKUST) bắt đầu hoạt động từ năm 1991. Theo Bộ GDĐT, tại thời điểm chuẩn bị thành lập HKUST năm 1986, chính quyền Hồng Kông cũng đang ở trong tình trạng phải chọn lựa như Việt Nam hiện nay: hoặc là đầu tư vào trường ĐH danh tiếng đã có lịch sử lâu dài như ĐH Bách khoa Hồng Kông, ĐH Hồng Kông, hoặc mở một trường với mô hình hoàn toàn mới như HKUST.  Chỉ trong vòng 15 năm kể từ ngày khai giảng khoá đầu, trường đã được Newsweek xếp hạng 60 trên toàn thế giới, cao nhất trong số các trường ĐH ở Hồng Kông.  Chỉ trong vòng 15 năm kể từ ngày khai giảng khoá đầu, HKUST đã được Newsweek xếp hạng 60 thế giới, cao nhất trong số các ĐH ở Hồng Kông.

Đại học Khoa học và Công nghệ Pohang (POSTECH): Là một đại học tư, được tập đoàn POSCO thành lập năm 1986, POSTECH đã nhanh chóng vươn lên trở thành một đại học hàng đầu Hàn Quốc trong những năm 1990 và vươn xa hơn ở sân chơi thế giới kể từ những năm 2000 trở lại đây (theo bảng xếp hạng của THES 2012, POSTECH đứng thứ 53 thế giới, đứng thứ 1 thế giới trong số các đại học trẻ dưới 50 tuổi).

Đại học Khoa học và Công nghệ mang tên Vua Abdulla (KAUST) của Ả-rập Xê-út. KAUST được thành lập năm 2009 với tham vọng sẽ trở thành “MIT của Phương Đông”, giúp  Ả-rập Xê-út hội nhập với quốc tế về khoa học và giáo dục. Gần giống Đại học Việt Đức, KAUST tập trung cao độ vào một số ngành khoa học công nghệ mũi nhọn phục vụ trực tiếp cho sự nền công nghiệp như Công nghệ hoá học, Khoa học Môi trường, Khoa học hàng hải và chỉ tuyển sinh ở trình độ sau đại học nhằm mục tiêu gắn liền đào tạo với nghiên cứu khoa học. Cho đến 2013, chỉ 4 năm sau ngày thành lập, lần đầu tiên KAUST đã được vào Top 500 đại học xuất sắc nhất trên bảng xếp hạng của Đại học Giao thông Thượng Hải.

Tuy nhiên cần nhìn vào ngân sách hoạt động của 3 đại học trên để hiểu tại sao họ phát triển rất nhanh trong thời gian qua:

HKUST (Hongkong), chi phí đầu tư năm 1991 vào khoảng 200 triệu USD (ngang với ĐH Việt Đức). Nhưng tới năm 2013, chỉ riêng chi phí nghiên cứu phát triển đã là 100 triệu USD trong ngân sách hoạt động hàng năm 420 triệu USD.

POSTECH (Hàn Quốc): chi phí thường xuyên năm 2012 là 262 triệu USD, trong đó R&D là 143 triệu USD.

KAUST khi thành lập đã được Nhà vua cấp 1 quỹ endowment 10 tỷ USD, sau đó bổ sung thêm 10 tỷ USD nữa. Nó làm cho KAUST trở thành một trong số các đại học giàu nhất thế giới, ngang ngửa với các trường như Harvard, Yale, Stanford và Princeton. Mỗi giáo sư, sau khi được bổ nhiệm với hợp đồng 5 năm, được cấp ngân sách nghiên cứu hàng năm từ 400.000-800.000 USD.

3. Kiến nghị

1. Mô hình các đại học tư nước ngoài như RMIT và Fulbright cần được khuyến khích và hỗ trợ, vì không tốn kém ngân sách nhà nước để có được dịch vụ giáo dục chất lượng cao do các trường quốc tế như RMIT và Harvard hỗ trợ. Xây dựng nhanh chóng và đơn giản hóa khung pháp lý/thủ tục là yêu cầu cấp bách để thu hút thêm đầu tư nước ngoài cũng như đẩy nhanh việc triển khai dự án Đại học Fulbright Việt Nam.

2. Cần có chính sách và chương trình cụ thể để khuyến khích và phát triển việc hiện tặng/thiện nguyện (Philanthrophy) trong giáo dục đại học. Xã hội hóa giáo dục không chỉ hiểu đơn giản là thu hút đầu tư tư nhân vì lợi nhuận, mà cần tạo môi trường thể chế và xã hội để thúc đẩy Philanthrophy như cách các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ đã làm trong hàng trăm năm qua để có nền giáo dục đại học phát triển như hiện nay. Việt Nam cần tạo môi trường thuận lợi và thân thiện để trong tương lai sẽ có các trường phi lợi nhuận như Đại học Nông lâm nghiệp Đoàn Nguyên Đức ở Tây Nguyên, Trường đại học cộng đồng Phạm Nhật Vượng ở Hà Tĩnh, hay Phân hiệu Trương Gia Bình của ĐH FPT ở Điện Biên. Đối với các Philanthropist nước ngoài, cần xem xét và phát huy bài học của RMIT Việt Nam với 15 triệu USD từ Atlantic Philanthropies.

3. Với các đại học đẳng cấp quốc tế, cần xem xét, đánh giá và xây dựng lại kế hoạch phát triển các trường này một cách nghiêm túc:

Đặt ra mục tiêu thực tế hơn: TOP 200 thế giới hay Top 50 châu Á sau 10-15 năm là không thực tế, chắc chắn sẽ không thực hiện được. Không cần đưa chỉ tiêu xếp hạng vào mục tiêu của dự án.
Cần đặt mục tiêu cho các đại học Việt Đức, Việt Pháp (là các trường kỹ thuật công nghệ) trên cơ sở các chỉ tiêu thực tế như mức độ ảnh hưởng về học thuật/trích dẫn/số lượng và chất lượng các công trình khoa học, số lượng bằng sáng chế, số lượng và giá trị các hợp đồng ký với các ngành công nghiệp. Xem xét lại định hướng tập trung vào đào tạo sau đại học của các trường này.
Xem xét giảm quy mô, giảm vay vốn ODA của các dự án đang triển khai cho tiết kiệm và hiệu quả hơn. Xem xét kết hợp một số hợp phần của dự án Việt Đức và Việt Pháp để tránh trùng lặp;
Xem xét lại tính khả thi của dự án ĐH Việt Nhật, có thể hoãn hoặc hủy đề án này vì tính khả thi thấp. Đại học Việt – Anh chỉ triển khai với mức độ đầu tư tối thiểu từ nhà nước, cần tìm nguồn tài trợ rõ ràng từ nước ngoài và nếu không có thì nên chuyển sang hình thức đầu tư trực tiếp của đối tác Anh. Dừng các ý tưởng tiếp theo như Đại học Việt Nga (ĐH kỹ thuật Lê Quý Đôn);
Cần thành lập cơ quan chuyên trách độc lập của Bộ giáo dục hoặc Chính phủ/Quốc hội với sự tham gia của các nhà quản lý, chuyên gia giáo dục đại học nhiều kinh nghiệm của Việt Nam và nước ngoài, có sự tham gia của các Việt kiều đã công tác nhiều năm trong hệ thống giáo dục đại học Mỹ-Pháp-Úc như Quyết định 145/2006 của Thủ tướng đã định hướng… Không nên sử dụng mô hình Ban chỉ đạo vì đã có quá nhiều các Ban chỉ đạo các loại không hiệu quả (quy tập một số bộ ngành họp một năm 2-3 lần, lần sau vẫn đến ghi chép các vấn đề như lần trước). Tốt nhất là thành lập một Tổ công tác (task force) làm việc chuyên trách tại Văn phòng Chính phủ do Phó thủ tướng Võ Đức Đam trực tiếp phụ trách, có vai trò điều phối và giám sát các dự án đại học đẳng cấp quốc tế đang triển khai.
Tài liệu tham khảo
Adele Yung and Yojana Sharma, Demise of branch campuses exposes reliance on government subsidies, University World News, 2013
Amol Sharma, India’s Half-Hearted Welcome for Foreign Universities, The Wall Street Journal, 2011
Aston University, Aston University to set up new research-led University in Vietnam, 2013
Ayako Mie, Foreign colleges feel globalization-excluded, The Japan Times, 2013
Benjamin Preiss, Universities warm to global outreach, The Age, 2012
Chi Mai, Số phận bốn đại học quốc tế giờ ra sao, Thách thức của đại học đẳng cấp quốc tế, Vietnamnet, 2013
Christine t. Ennew & Yang Fujia, Foreign Universities in China: a case study, European Journal of Education,Vol. 44, No. 1, 2009
David Beanland, The birth of RMIT International University Vietnam, 2011
Cục đào tạo với nước ngoài (Bộ giáo dục và đào tạo), Báo cáo tình hình liên kết đào tạo, 4/2014
Dân trí, Đầu tư 330 triệu đô la Mỹ để thành lập Trường ĐH Việt – Nhật, 2014
Everett Rosenfeld, Universities Look East, Fueling Branch-Campus Boom,Time, 2012
Green, M. F., Eckel, P. D., Calderon, L. & Luu, D. T., Venturing Abroad: Delivering US Degrees through Overseas Branch Campuses and Programs. American Council on Education, US HE in a Global Context. Working Paper #1., 2007
Hồi ký Nguyễn Xuân Thu, Hành trình từ trường làng đến Đại học Quốc tế RMIT Việt Nam, Vietnamese Culture Publications, 2014
Hồ Tú Bảo, Trần Văn Thọ, Vũ Quang Việt, Trần Nam Bình, Hà Dương Tường, Trần Hữu Dũng, Sử dụng trí thức Việt kiều để xây dựng giáo dục đại học chất lượng cao
tại Việt Nam: Một đề án, Tạp chí Thời đại mới số 9, 2006
Jamil Salmi, Xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế: Chín sai lầm phổ biến, World Bank, 2010
Jason Lane and Kevin Kinser, India’s New Rules for Foreign Universities Are a ‘Missed Opportunity’, The Chronicle of Higher Education, 2013
John S. Rosenberg, A Nation, Building, Havard Magazine, 2014
Justin Pope, S. Universities Overseas Abroad: Failure Is A Reality, The Huffington Post, 2010
Kết luận của Thanh tra Chính phủ về liên kết đào tạo, 1/2013
Knight, J. & De Wit, H. (Eds), Quality and Internationalisation in Higher Education, 1999.
Mun-Heng Toh, Internationalization of Tertiary Education Services in Singapore, ADBI Working Paper Series, 2012.
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Báo cáo và khuyến nghị của Chủ tịch cho Hội đồng quản trị (RRP), khoản vay Dự án Khoa học và Công nghệ Hà Nội, 2011
Ngân hàng Thế giới, Tài liệu thẩm định dự án (PAD), khoản vay dự án Đại học mô hình mới (Đại học Việt Đức), 2010
Observatory on Borderless Higher Education (OBHE), 2012
Steven n. Robinson, Jun Wei, Yingzi Gong, and Micah Schwalb, Higher education and foreign schools in China, Journal of college and university law, 2010
Tamara Abdul Hadi , S. Universities Rush to Set Up Outposts Abroad, The New York Times, 2008
The Economist, Foreign universities find working in China harder than they expected, 2013
Vietnamnet, Bốn năm tới, Việt Nam sẽ có 4 trường ĐH theo chuẩn quốc tế, 2009
Yojana Sharma, Branch campus growth has moved to Asia, University World News, 2012
Yojana Sharma, China to evaluate foreign university presence and prepare guidelines, University World News, 2012
Yojana Sharma, US branch campus demise is a cautionary tale for Asian ambitions, University World News, 2012

[1] “Liberal arts” bao trùm mọi khía cạnh của nhân văn, xã hội và khoa học, từ toán, vật lý, hoá học cho đến mỹ thuật, âm nhạc, triết học, lịch sử, kinh tế, xã hội học. Nói cách khác, khả năng tư duy và phân tích sự vật từ nhiều góc cạnh khác nhau được chú trọng ngay từ những năm đầu đại học. Chương trình này được gọi là “liberal arts” bắt nguồn từ quan điểm về “liberal education”, tức là giáo dục khai phóng vì mục đích hiểu biết, nhằm trang bị cho sinh viên kiến thức tổng quát và khả năng tư duy độc lập, chứ không chỉ nhằm mục đích huấn nghệ. Đây là một mô hình mà giáo dục đại học cấp cử nhân tại Việt Nam nên theo. (Hồ Tú Bảo, Trần Văn Thọ, Vũ Quang Việt, Trần Hữu Dũng, 2006)

[2] Chuck Feeney, người Mỹ gốc Ai-len, đã đóng góp nhiều cho giáo dục, trong đó có 950 triệu USD cho trường đại học của ông là Cornell University (bao gồm 350 triệu USD xây New York Tech Campus). Feeney đã tặng khoảng 1 tỷ USD cho các trường đại học ở Ai-len, đáng kể nhất là cho University of Limerick. Ông cũng đã đóng góp 350 triệu USD cho các hoạt động thiện nguyện ở Việt Nam.

Tính từ ngày thành lập năm 1982, Quỹ Atlantic Philanthropies của Feeney đã tặng 6,2 tỷ USD và có kế hoạch hiến tặng nốt 1,3 tỷ USD trước năm 2016. Trong khi đó Feeney đi máy bay hạng phổ thông, không sở hữu căn nhà hay chiếc ô tô nào, và đeo một chiếc đồng hồ trị giá 15 USD (theo Wikipedia).

[3] GS Nguyễn Thiện Nhân lấy bằng tiến sĩ ở CHDC Đức cũ

[4] Dwight Perkins, Nguyen Xuan Thanh, Vu Thanh Tu Anh, Huynh The Du, Jonathan Pincus, Tony Saich, Ben Wilkinson. R

[5] Thomas Vallely vừa được trao Giải thưởng Phan Chu Trinh vì sự nghiệp văn hoá-giáo dục năm 2014

[6] ADF: Asian Development Fund, nguồn vốn ưu đãi nhất của ADB với lãi suất thấp, thời hạn khoản vay dài và thời gian ân hạn lâu, Việt Nam chủ yếu nhận nguồn vốn này của ADB. OCR là viết tắt của Ordinary Capital Resource/nguồn vốn thông thương với lãi suất mang tính thương mại nhiều hơn trên cơ sở lãi suất trường London LIBOR. OCR chỉ được dùng cho các dự án có doanh thu và khả năng thu hồi vốn trực tiếp như điện, đường cao tốc, cấp nước đô thị.