HTN: Bài đăng Đăng trên tạp chí Thanh- Nghị (chủ nhiệm Vũ Đình Hòe), số 14, ra ngày 1er Juin 1942.

Một hôm, nhân bàn việc quyên tiền để tậu một miếng đất  giáp Hội Trí-tri Hà thành làm sân thể thao cho học trò và tậu một ngôi nhà làm phòng giấy vĩnh viễn cho Hội Truyền bá quốc ngữ, một bạn thanh niên có chân trong hội đứng lên nói rằng:

Sao những hội học như hội ta không dạy cách …làm giàu, cho nước ta cũng có hạng người trung sản sẵn tiền giúp việc công ích, việc cứu tế ? Mỗi khi cần tiền làm việc công, đành phải bó tay,không vin vào đâu được ! Vì tiếng vậy, nước ta chưa làm gì có một hạng người trung lưu vừa có tiền, vừa có học, vừa có cả giáo dục nữa. Người Tây cho hạng người đó ( bourgeoisie), vào phần lọc lõi hơn cả trong quốc dân, vì hạng đó đã từng cần cù và cần kiệm trong hai ba đời, mới tích lũy được tài sản về vật chất, về trí tuệ, về tinh thần. Nước ta, dù nghèo túng đến đâu, cũng nên theo cái gương đó, bắt đầu học lấy những tính cần lao tiết kiệm, cho sớm có một hạng người trung sản ra gánh vác việc đời.

Các bạn thanh niên đang tủm tỉm cười, thì một hội viên nói tiếp ngay rằng :

Tôi rất tán thành lời đề nghị đó. Nghề gì chẳng là học? Nghề làm giàu cũng phải học: phải biết cách giữ lấy đồng tiền hiện có mà sinh lợi ra, đừng đem phung phí vào những thói đời thường ưa chuộng, như việc khao vọng, việc cưới xin, việc ma chay. Vậy trước khi mở những trường thực dụng , những lớp bổ túc, trước khi bàn đến cách dạy , các khóa học, các nghệ thuật để đem ra ứng dụng vào công nghệ, vào thương nghiệp, vào hội học, nên hô hào làm việc này : bài trừ các tục xấu dở, tiệt dần những cái mầm độc, nó đã làm tiêu ma cái nguyên khí của đồng bào và xô đẩy biết bao nhiêu gia đình vào cảnh điêu tàn. Những hội học nên gây lấy cái phong trào này, trước là để cảm hóa xã hội, sau là để ngăn ngừa những sự khuynh gia bại sản , nó đã làm đình trệ các việc cải cách trong dân gian.

Một bạn thanh niên bẻ rằng:

“Không nên cải cách to tát lắm, dù theo lý thuyết hay đến đâu cũng hại; phải thong thả dần dà, phải giữ lấy cái chế độ cũ, nhưng đổi dần đi : đó là lời của các nhà chính trị, nhưng dù thế nào nữa, câu chuyện mà chúng tôi đang bàn đây có lẽ hơi ra ngoài cái tôn chỉ của hội học.

Một người bèn hỏi ngay rằng : – Thế thì học để làm gì ?

Người thì bảo : “ để kiếm gạo”, “ để làm quan”, kẻ thì bảo “ để lấy vợ giàu” !

Ngoài những thuyết duy lợi ra, còn có nhiều ý kiến hay, tưởng nên chép ra đây để mở rộng con đường thanh nghị.

Người chủ trương thuyết dạy làm giàu nói rằng :

Học để ra sức chiến đấu với các tệ tục, để cho cách sinh hoạt đỡ tầm thường mà có thi vị một chút

Người phản đối những sự cải cách lớn nói thêm rằng :

Nhưng phải giữ lấy cái nền nếp cũ, phải tôn trọng những kỷ cương làm gốc cho sự sinh tồn nước nhà, đừng để cho vong bản, vì ai cũng công nhận rằng “ đã mất cái tinh thần của dân tộc là mất hết, không thể khôi phục được nữa.”

Có lẽ thế, ta có câu “ Ăn lấy sống, ở lấy sáng; khôn thì sống, bống thì chết”. Không học sao khôn được ?

Nhưng bọn tân tiến phải học thêm nhiều. người ta đã bảo tiếng nói là cái thuyền để chở vạn hóa; vậy ai đã là người trí thức phải học tập thế nào cho tiếng nước nhà thành cái thuyền đó, nhưng cái thuyền đó phải đóng bằng gỗ nhà cho thật chắc, không nên dùng những gỗ tạp nham, sợ khi ra đến bể khơi không chịu được gió to sóng cả. Nghĩa là bao giờ miệng đọc mà tai nghe thấu, trên dưới thông dụng thì những điều mà các bạn ước mong mới có thể thực hành được. Đã hay rằng tư tưởng muốn truyền bá thì phải có kẻ học thức, nhưng muốn thực hiện ra thì phải có công chúng mới xong.

Học không những để biết các lẽ hành động của quốc gia, biết những điều chân lý cốt yếu cho đạo đức xử thế, lại còn để biết mê sự đạo đức bằng người ta mê người đàn bà đẹp, biết đời người có những mục đích cao thượng, nên ra công cố sức mà sống cho xứng đáng.

Thực tế, có học thì mới biết những cái lý tưởng làm gốc cho quốc hồn : lý tưởng yêu nước, lý tưởng ham học, lý tưởng ăn ở theo đạo đức. Một nhà thông thái nước Pháp đã nói rằng : “ Hễ có một cái lý tưởng cao như thế, thì bụng nghĩ việc làm như có cái ánh sáng vô hạn chiếu qua vào.”

Mấy lại biết đâu, may ra sáng tạo được như nhà thông thái ấy chăng?

Tôi tưởng nhân tài trong một nước không những cốt ở sự học, lại còn cốt ở gia tộc nữa.

Thế thì trái hẳn với ý kiến người Âu Mỹ.

Chẳng trái tí nào, vì người Âu Mỹ bảo phải có học thức cao, nhưng lại phải có cả dòng giống tốt nữa.

Các bạn thanh niên bàn bạc ôn hàoCác bạn thanh niên bàn bạc ôn hòa cẩn thận rồi kết cục lại quay về hai cái tư tưởng cũ đã làm gốc cho dư luận Á Đông, một là “ bảo chủng” hai  là “ tồn học”. Sau một bạn lấy quyển Sách học đề cương ( quyển 6, tờ 102a) ra đọc một đoạn làm kết luận, ai nấy đều chú ý, tỏ vẻ tôn cổ hơn trước. Đoạn sách ấy chưa ai dịch, nay chép ra đây để biểu thị cái ý kiến thanh niên đối với việc học ngày nay :

“ Đường lối học thế nào ?”

“ có lối học vụ thực, có lối học vụ danh”

“ Học hết sự thực mà vẫn sợ có lối thất thực là lối học của cổ nhân”

“ Học ham hư danh mà chưa thoát khỏi cái thói tuẫn danh là lối học của người đời sau.”

Thế nào gọi là lối học của cổ nhân ?

“ Ba thiên Duyệt mạnh ( của ông Phó Đuyệt làm ra để dạy vua Cao Tôn nhà Thương) nói về sự nghiệp quần thần, sáu điển Thái bình ( của ông Chu Công làm ra để dạy vua Thành vương) nói về qui mô chính trị, không một việc gì là không có sự thực.

“ Văn , hạnh, trung , tín : đức Khổng lấy bốn điều ấy dạy học trò. Đức hạnh, ngôn ngữ, chính trị, văn học : học trò đức Khổng học ở bốn khoa đấy. Dạy ở đấy, học ở đấy : không sự gì là không thực.

“vậy thì học đã hết sự thực, mà vẫn sợ rằng có cái lỗi thất thực, ấy là lối học của cổ nhân.

Thử đem lối học của người đời sau nói ra : học về lối kê cổ ( nghiên cứu học đời xưa) thì lưu ý ở xe ngựa ( làm quan có bổng lộc), học về lối minh kinh ( rõ nghĩa sách) lại say đắm về áo xanh áo tía ( chủ ý thi đỗ), học về lối thanh liêm, thậm chí để xe nát ngựa gầy, học về lối giảng độc, thậm chí để đầu bù mặt cáu.

“ Vậy thì học ham hư danh mà chưa thoát khỏi cái thói tuẫn danh, ấy là lối học của đời sau đó.

“Ôi, học không phải là học xuông mà thôi đâu!

“ Có thực học ấy có thực dụng : học mà không dùng, tức là người học suông đó”

“ Câu chi thành tận tính ( rất thành hết tính) ở Trung dung chép , là công đứng thánh nhân giúp đỡ trời đất, câu chính tâm thành ý ( chính là trong lòng, thực ý) ở Đại học chép, là gốc đứng nhân dân trị nước yên thiên hạ.”

“ Khi còn ẩn, thì sửa một mình cho hay cho giỏi; khi đạt , thì làm thiên hạ đều hay, đều giỏi”

“Rất qui về lối vụ thực của cổ nhân,là có thực dụng, rất ghét về lối vụ danh của người sau, là chỉ cầu hư danh mà thôi.”

“ Có chí về việc học, ấy há không biết kén chọn vậy ru ?”

 

Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố

(Trước năm 1945, Nguyễn Văn Tố Làm việc tại Viễn Đông Bác Cổ và Hội trưởng Hội Trí Tri, Hội Truyền bá quốc ngữ.)