“Đại học đẳng cấp quốc tế” không phải là một khái niệm mới nhưng nó thực sự chỉ trở nên phổ biến ra ngoài biên giới lĩnh vực giáo dục và khoa học từ đầu những năm 2000 trở lại đây. Nếu như trước đây, danh xưng này chỉ là một cuộc đua giữa một nhóm nhỏ các đại học hàng đầu đến từ các nước có truyền thống khoa học lâu đời như Anh, Mỹ, Đức, Nhật; ngày nay, cuộc cạnh tranh “đẳng cấp quốc tế” trở nên khốc liệt và phức tạp hơn nhiều và được nâng lên ở mức chính sách quốc gia với sự trỗi dậy mạnh mẽ của các nước đang hoặc mới phát triển, đặc biệt từ Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Arap Saudi. Kể từ năm 2006, với việc ban hành Quyết định số 145/2006/QĐ-TTg về chủ trương và những định hướng lớn xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế, Việt Nam cũng chính thức tham gia vào cuộc đua nói trên.
Đại học đẳng cấp quốc tế – một khái niệm mơ hồ
Năm 2004, khi chủ đề “đại học đẳng cấp quốc tế” bắt đầu nóng dần trên khắp thế giới, GS. Phillip Altbach từ ĐH Boston, Mỹ đã có một nhận định khiến công chúng choàng tỉnh “không ai biết đại học đẳng cấp quốc tế là gì, và cũng không ai biết làm sao để có được nó; nhưng ai cũng nhắc đến nó”. Vậy phải chăng, cả thế giới đang cuốn theo một cuộc chơi không có đích đến? Nhận định này hối thúc các nhà nghiên cứu cũng như hoạch định chính sách xem xét và cắt nghĩa khái niệm này.
Mười năm sau công bố của Altbach, “đại học đẳng cấp quốc tế” không còn là khái niệm quá mơ hồ nữa. Trong nhiều nghiên cứu đã công bố về chủ đề này, nghiên cứu của chuyên gia giáo dục người Maroc, TS. Jamil Samil được cho là xúc tích và phổ quát hơn cả. Trong một báo cáo viết cho Ngân hàng thế giới, xuất bản năm 2009, Samil đã tổng kết 3 đặc điểm chung nhất để một đại học trở thành “đẳng cấp quốc tế”, cụ thể là:
(1) Tập trung nhân lực trình độ cao (bao gồm giảng viên, nghiên cứu viên; sinh viên đến từ khắp nơi trên thế giới);
(2) Nguồn lực dồi dào (bao gồm đầu tư của Nhà nước, nguồn hiến tặng từ cộng đồng, học phí từ sinh viên và kinh phí cho hoạt động nghiên cứu) và
(3) Cơ chế quản trị phù hợp (bao gồm chính sách hỗ trợ từ Nhà nước, quyền tự chủ và tự do học thuật, đội ngũ lãnh đạo và tầm nhìn chiến lược và văn hoá học thuật xuất sắc).
Ba yếu tố này kết hợp và tương tác lẫn nhau để tạo nên 3 nhóm sản phẩm chính của một “đại học đẳng cấp quốc tế”, bao gồm:
(1) Sinh viên tốt nghiệp trình độ cao có kiến thức, kỹ năng có thể làm việc được ở lĩnh vực, khu vực trên khắp thế giới;
(2) Kết quả nghiên cứu đỉnh cao được thể hiện qua số lượng bài báo quốc tế, sách chuyên khảo, bằng phát minh, sáng chế; và
(3) Kết quả chuyển giao tri thức và công nghệ để giải quyết những vấn đề lớn hoặc đóng góp cho sự phát triển của nhân loại.
Hình 1: Ba yếu tố tạo nên đại học đẳng cấp quốc tế
(tác giả chuyển ngữ từ mô hình gốc của Samil (2009))
Đại học đẳng cấp quốc tế và bảng xếp hạng đại học
Cùng với sự phát triển của các nghiên cứu về “đại học đẳng cấp quốc tế”, trong thập kỷ vừa qua, chúng ta cũng chứng kiến sự “lên ngôi” của các bảng xếp hạng đại học quốc tế, mà tiêu biểu nhất là 3 bảng xếp hạng của Đại học Giao Thông Thượng Hải (ARWU), của Phụ san Thời báo giáo dục đại học (THES) và của Tổ chức Quacquarelli Symonds (QS). Mặc dù sử dụng những phương pháp đo lường khác nhau, nhưng cả 3 bảng xếp hạng trên đều sử dụng những tiêu chí đánh giá gần giống với 3 đặc điểm của “đại học đẳng cấp quốc tế” mà Samil đã nêu ở trên. Do đó, cũng không ngạc nhiên khi hầu hết các đại học có truyền thống được cộng đồng thừa nhận là “đại học đẳng cấp quốc tế” như Havard, Standford, Oxford, Cambridge hay Tokyo đều nằm trong Top đầu của cả 3 bảng xếp hạng kể trên.
Vì vậy, một cách ngắn gọn người ta thường ngầm chỉ các “đại học đẳng cấp quốc tế” là các đại học nằm trong Top 10, 20, 50, 100, 200 hoặc “xông xênh” hơn là Top 500 trên các bảng xếp hạng đại học. Nói cách khác, cuộc cạnh tranh “đại học đẳng cấp quốc tế” trong những năm qua cũng chính là cuộc chiến nhằm chen chân vào trong Top đầu của các bảng xếp hạng đại học. Như đã đề cập ở trên, cuộc cạnh tranh này ngày càng có xu hướng “nóng dần” với sự tham gia quyết liệt của các đại học “chiếu dưới”, nhưng lại được hỗ trợ mạnh mẽ từ phía Nhà nước.
Đến đây, có thể chúng ta sẽ đặt một câu hỏi: “các nước ít có truyền thống về học thuật hơn liệu có nhất thiết phải có đại học “đaị học đẳng cấp quốc tế”? Cái “danh xưng” ấy quan trọng đến vậy sao? Hay ngoài cái “danh xưng” để được “bằng anh, bằng em”, “đại học đẳng cấp quốc tế” còn đem lại những lợi ích gì khác cho quốc gia mà nó đặt sở tại? Nhìn lại sản phẩm thứ 3 của “đại học đẳng cấp quốc tế” của Samil sẽ giúp chúng ta tìm được lời giải đáp cho những câu hỏi hóc búa kể trên. Với việc đặt kết quả chuyển giao tri thức và công nghệ (sản phẩm 3) bên cạnh và quan trọng tương đương với 2 sản phẩm truyền thống của trường đại học là sinh viên tốt nghiệp và kết quả nghiên cứu (sản phầm 1,2), Samil đã đặt trường đại học từ vị trí của “tháp ngà”, trở thành một mắt xích quan trọng trong của nền kinh tế – xã hội – văn hoá nói chung. Thật vậy, trong nền kinh tế tri thức, đại học không còn là nơi đào tạo và nghiên cứu những gì họ muốn, mà còn phải đào tạo, nghiên cứu ra những theo những gì xã hội cần, và hơn thế, dự báo và giải quyết những vấn đề xã hội chưa thấy.
Nói tóm lại, hơn là một “danh xưng hấp dẫn”, “đại học đẳng cấp quốc tế” chính là “tiền đề” quan trọng quyết định sự mạnh khoẻ của nền kinh tế, sự phồn thịnh của người dân cũng như phản ánh tầm ảnh hưởng của quốc gia mà đại học đó đặt trụ sở trên bình diện quốc tế. Không một quốc gia nào muốn tụt hậu phía sau. Vì vậy, cuộc cạnh tranh khốc liệt mà chúng ta đang được chứng kiến trên quy mô toàn cầu, có thể nói cũng là một hiện tượng dễ hiểu.
Ba nẻo đường dẫn tới “thành Rome”
Nếu coi “đại học đẳng cấp quốc tế” là “thành Rome”, thì theo TS. Jamil Samil, có ba “nẻo đường” cùng dẫn đến đích trên, đó là: (1) Nâng cấp từ một đại học sẵn có; (2) Sáp nhập một số đại học sẵn có; (3) Xây dựng mới hoàn toàn. Trong phần tiếp theo, chúng ta cùng nhau điểm qua một số trường hợp thành công theo ba chiến lược kể trên:
Nẻo đường thứ nhất: Nâng cấp từ một đại học có sẵn
Ưu điểm của chiến lược này là tiết kiệm chi phí nhưng nhược điểm của nó lại là không dễ để thay đổi thói quen, văn hoá của những con người cũ trong bối cảnh mới phải cạnh tranh vươn lên để đạt “đẳng cấp quốc tế”. Trường hợp Đại học Quốc gia Singapore tiêu biểu cho sự thành công của chính sách này; và ở chiều ngược lại là trường hợp của Đại học Malaya, Malaysia. Ngược dòng lịch sử trở lại những năm 1950, hai đại học này vốn có cùng chung xuất phát là 2 campus của cùng 1 đại học với tên gọi duy nhất Đại học Malaya (một ở Kualar Lampur và một ở Singapore ngày nay). Cùng với sự tách khỏi Nhà nước liên bang Malaysia để trở thành một quốc gia độc lập của Singapore vào năm 1965, campus của đại học Malaya tại Singapore cũng tách ra và phát triển thành Đại học Quốc gia Singapore. Sau cuộc “phân ly” này, mặc dù cùng được hai Chính phủ ưu tiên đầu tư để trở thành các đại học nghiên cứu hàng đầu, kết quả của Đại học Quốc gia Singapore rõ ràng rất khác biệt với những gì Đại học Malaya đã đạt được. Ngày nay, thế giới đều công nhận Đại học Quốc gia Singapore thực sự là một Đại học “đẳng cấp quốc tế” với nhiều năm liền lọt vào Top 40, thậm chí Top 30 của các bảng xếp hạng đại học; trong khi đó, thứ hạng cao nhất mà Đại học Malaya đạt được trong những năm qua mới chỉ dừng lại ở mức Top 200; thậm chí là đã ra khỏi Top 400 trong một vài năm trở lại đây ở bảng xếp hạng của THES. Nguyên nhân sâu xa của kết quả này được cho là xuất phát từ chính sách tuyển sinh trái ngược giữa Chính phủ Singapore và Malaysia. Trong khi Singapore chủ động mở rộng cánh cửa chào đón sinh viên quốc tế đến học tập và sau đó tiếp tục trao cơ hội để họ ở lại làm việc (năm 2009, tỷ lệ sinh viên ngoại quốc ở nước này ở trình độ đại học là 20%, ở trình độ sau đại học tương ứng là 43%), Malaysia, ở chiều ngược lại, với chính sách Bumiputera, ban hành từ những năm 1970, trong đó khống chế số lượng sinh viên không phải người gốc Mã Lai không vượt quá 45% tổng số sinh viên, vô hình chung lại đẩy rất nhiều sinh viên xuất sắc người Malaysia nhưng lại có gốc Ấn hoặc Hoa sang nước khác, qua đó dẫn đến hệ quả Malaysia bị chảy máu chất xám nặng nề trong nhiều năm. Chính sách này mặc dù sau đó đã được bãi bỏ hoàn toàn vào năm 2004, nhưng theo giới quan sát, dư âm của nó vẫn còn ảnh hưởng nặng nề tới đại học Malaya nói riêng cũng như nền giáo dục đại học của Malaysia nói chung.
Nẻo đường thứ hai: Sáp nhập một số đại học sẵn có
Trung Quốc, Đan Mạch, Anh Quốc, Nga, Pháp là những nước tiêu biểu áp dụng chiến lược này nhằm xây dựng “đại học đẳng cấp quốc” tế. Từ đầu những năm 2000, Trung Quốc bắt đầu tiến hành sáp nhập một loạt các đại học đơn ngành về Y Dược (vốn trước kia thuộc Bộ Y Tế) vào các đại học đa ngành như Đại học Bắc Kinh, Thượng Hải, Phú Đán. Một trường hợp khác đáng chú ý là Đại học Chiết Giang được thành lập trên cơ sở thành lập 4 đại học thuộc tỉnh Chiết Giang vào năm 1998 và nhanh chóng chen chân vào nhóm các đại học hàng đầu của Trung Quốc cũng như các bảng xếp hạng đại học trên thế giới (năm 2013, đại học này xếp hạng 151-200 tại bảng xếp hạng Đại học Giao thông Thượng Hải, ngang hàng với 2 Đại học hàng đầu của Bắc Kinh và Thanh Hoa). Một trường hợp thành công nổi bật khác là việc sáp nhập Đại học Victoria tại Manchester và Viện Khoa học Công nghệ Manchester (UMIST) vào năm 2004 để thành lập đại học Manchester (năm 2013 xếp hạng 41 tại bảng xếp hạng Đại học Giao thông Thượng Hải). Lợi thế lớn nhất của chiến lược sáp nhập là ngay lập tức có thể xây dựng được ngay một đại học đa ngành, nhưng khó khăn của nó lại là làm sao có thể gắn kết được toàn bộ đội ngũ giảng viên, các khoa, viện nghiên cứu vốn ở các đại học khác nhau trong một thực thể hữu cơ thống nhất. Thất bại của Chính phủ Pháp trong dự án PRES, khởi động từ năm 2006 nhằm sáp nhập các đại học, các trường lớn (grande ecoles) và các trung tâm nghiên cứu nhằm tạo nên những cơ sở giáo dục đại học có thứ hạng cao trên bảng xếp hạng quốc tế là minh chứng rõ nhất cho nhận định này.
Nẻo đường thứ ba: Xây dựng mới hoàn toàn
Đối với những hệ thống đang bị chịu ảnh hưởng nặng nề bởi quan liêu, ì trệ; xây dựng mới hoàn toàn một đại học nhắm đến mục tiêu “đẳng cấp quốc tế” là cách làm phù hợp, tuy vậy, cách làm này lại rất tốn kém, vì vậy, không phải nước nào cũng đủ nguồn lực để thực hiện chiến lược này. Những trường hợp tiêu biểu cho chiến lược này, có thể kể đến là Đại học Khoa học và Công nghệ Pohang (POSTECH) và Đại học Khoa học và Công nghệ mang tên Vua Abdulla (KAUST) của Ả-rập Xê-út. Là một đại học tư, được tập đoàn thép POSCO thành lập năm 1986, POSTECH đã nhanh chóng vươn lên trở thành một đại học hàng đầu Hàn Quốc trong những năm 1990 và vươn xa hơn ở sân chơi thế giới kể từ những năm 2000 trở lại đây (theo bảng xếp hạng của THES 2012, POSTECH đứng thứ 50 thế giới, và thứ 1 của Hàn Quốc, vượt cả ĐHQG Seoul – thứ 57 thế giới). Điểm đáng chú ý của POSTECH là mặc dù có nguồn đầu tư dồi dào (kinh phí thường xuyên khoảng 2 tỷ USD/năm) nhưng POSTECH chỉ duy trì số lượng sinh viên ở mức nhỏ (khoảng hơn 3000, một nửa trình độ đại học và một nửa sau đại học); phần lớn kinh phí đầu tư được dồn vào mục tiêu nghiên cứu khoa học, đặc biệt là các nghiên cứu ứng dụng liên ngành trực tiếp phục vụ cho nhu cầu của khu vực công nghiệp. KAUST của Ả rập Seut cho chúng ta một ví dụ thành công khác. Thành lập năm 2008 với vốn đầu tư ban đầu lên tới 10 tỷ USD, KAUST được hy vọng sẽ là quả “đấm thép” giúp giáo dục và khoa học của đất nước vốn nổi tiếng nhiều dầu mỏ hơn tri thức này có thể hội nhập với quốc tế. Cho đến năm 2013, tức là 6 năm sau ngày thành lập, lần đầu tiên KAUST đã chen chân vào được Top 500 đại học xuất sắc nhất trên bảng xếp hạng của Đại học Giao thông Thượng Hải. Ngoài yếu tố dồi dào nguồn lực tài chính, theo các chuyên gia, có một số điểm đáng lưu ý quyết định thành công của KAUST: một là, sự tập trung cao độ vào một số ngành khoa học công nghệ mũi nhọn phục vụ trực tiếp cho sự nền công nghiệp của đất nước như Công nghệ hoá học, Khoa học Môi trường, Khoa học hàng hải…; hai là, chỉ tuyển sinh ở trình độ sau đại học nhằm mục tiêu gắn liền đào tạo với nghiên cứu khoa học với số lượng sinh viên hạn chế (1000-2000 sinh viên, tất cả đều nhận học bổng toàn phần); ba là, sử dụng hiệu trưởng nguyên là những nhà lãnh đạo đại học đẳng cấp quốc tế: TS. Choon Fong Shih, nguyên hiệu trưởng Đại học Quốc gia Singapore (2008-2013) và TS. Jean-Lou Chameau, nguyên hiệu trưởng Viện Công nghệ California (2013 – nay), qua đó, tận dụng uy tín và kinh nghiệm của họ trong việc xây dựng và phát triển KAUST; bốn là, KAUST được xếp ngoài hệ thống giáo dục dưới sự quản lý của Bộ Giáo dục và hưởng quyền tự chủ và tự do học thuật hoàn toàn.
Giấc mơ đại học Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế
Vào cuối thế ký XIX, khi được tỷ phú Rockefeller hỏi sẽ phải mất bao nhiêu tiền để xây dựng thành công một đại học “đẳng cấp quốc tế”, GS. Charles Eliot, người sau này trở thành hiệu trưởng đại học Harvard đã trả lời cần phải mất 50 triệu USD và 200 năm. Những gì diễn ra sau đó đã chứng minh nhận định của GS. Eliot là sai lầm. Đại học Chicago chỉ cần mất khoảng 20 năm đầu thế kỷ XX và khoảng 100 triệu USD để trở thành đại học đẳng cấp quốc tế. Với số tiền đầu tư lớn hơn nhiều và cơ chế quản trị phù hợp, POSTECH chỉ mất hơn 10 năm để chen chân vào Top 100 đại học hàng đầu, còn KAUST mất đúng 5 năm để lọt vào Top 500.
Chính thức gia nhập cuộc đua
Năm 2006, với việc ban hành Quyết định 145/2006/QĐ-TTg, Việt Nam cũng chính thức tham gia cuộc đua “đại học đẳng cấp quốc tế”. Đến năm 2007, cùng với việc ban hành Quy hoạch mạng lưới đại học và cao đẳng giai đoạn 2006-2020 (Quyết định 121/2007/QĐ-TTg), Việt Nam cụ thể hoá tham vọng nói trên bằng việc xác định mục tiêu đến năm 2020, sẽ có một trường đại học lọt vào Top 200 đại học hàng đầu thế giới. Mục tiêu này cũng được nhắc lại nhiều lần trong các văn bản pháp quy của Việt Nam sau đó, điều này chứng tỏ quyết tâm rất cao của Đảng và Nhà nước ta.Và có vẻ như chúng ta đang áp dụng cả 3 chiến lược xây dựng đại học đẳng cấp quốc tếmà TS. Samil đã tổng kết để đạt được mục tiêu nói trên: (1) xây dựng mới hoàn toàn với sự hỗ trợ của đối tác từ Đức và Pháp (Đại học Việt Đức và Đại học Khoa học Công nghệ và Hà Nội), 2 dự án khác với đối tác Nhật Bản và Anh Quốc cũng được bàn thảo; (2) nâng cấp Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn thành Đại học Khoa học và Công nghệ Việt Nga (dự kiến chính thức ra mắt năm 2016); (3) sáp nhập một số đại học sẵn có: 2 Đại học Quốc gia và 3 Đại học vùng được thành lập từ những năm 1990 (Đại học Quốc gia Hà Nội mới đây cũng công bố mục tiêu đến năm 2020 sẽ lọt vào Top 100 đại học hang đầu Châu Á, tương đương Top 500 thế giới, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cũng đang có những mục tiêu tương tự).
Còn xa mới đến đích
Vậy, đại học nào trong số những đại học kể trên có thể giúp chúng ta hiện thực hoá giấc mơ Top 200 thế giới khi mà thời hạn 2020 đang đến rất gần. Căn cứ những đặc điểm của đại học “đẳng cấp quốc tế” mà TS. Samil đã tổng kết, có thể thấy, khoảng cách từ những gì chúng ta đang có cho đến đích còn khá xa. Về tiêu chí tập trung nhân lực trình độ cao, những tổng kết gần đây cho thấy đại học Việt Đức và Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội đang gặp rất nhiều khó khăn trong tuyển sinh trong khi đội ngũ giảng viên vẫn đang bị lệ thuộc quá nhiều về phía đối tác nước ngoài; 2 Đại học Quốc gia tuyển được nhiều sinh viên giỏi hơn ở trình độ đại học nhưng rất ít trong số này tiếp tục ở lại trong nước để theo học ở bậc sau đại học; đội ngũ giảng viên nội địa ở 2 Đại học Quốc gia mặc dù thuộc hàng mạnh nhất cả nước nhưng kết quả công bố quốc tế hiện nay cũng mới chỉ ở mức khiêm tốn, chỉ tương đương với năng suất của một khoa của đại học thuộc Top 500 trên thế giới. Về tiêu chí nguồn lực, Đại học Việt Đức và Đại học Khoa học và Công nghệ dù được đầu tư lên tới gần 200 triệu USD cho mỗi trường, con số vẫn quá khiêm tốn nếu so với 3 tỷ hay 10 tỷ của POSTECH và KAUST; nếu tính đầu tư trên đầu sinh viên, ngay cả đối với chương trình tiên tiến, chất lượng cao đang thực hiện ở 2 Đại học Quốc gia và một số đại học khác trong cả nước, thì con số ước tính mới chỉ khoảng trên 3000 USD/sinh viên/năm, thua xa mức trung bình ở hầu hết đại “đẳng cấp quốc tế” (khoảng 20.000-30.000 USD/sinh viên/năm). Về tiêu chí cơ chế quản trị, tự chủ đại học từ nhiều năm nay vẫn là vấn đề bức xúc của tất cả các trường đại học trên cả nước, kể cả 2 Đại học Quốc gia, là những đơn vị, theo quy định được giao nhiều quyền tự chủ nhất.
Nói tóm lại, xét trên mọi phương diện, dù là những người lạc quan nhất cũng không dám tin Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu có đại học lọt vào Top 200 thế giới vào năm 2020.
Thay cho lời kết – Sự cần thiết xem xét lại kế hoạch
Thật vậy, “đại học đẳng cấp quốc tế” không phải là một “kỳ thi đạt chuẩn” như kiểu kiểm định chất lượng mà cứ đại học nào đạt các tiêu chuẩn theo yêu cầu thì sẽ được nhận danh xưng này; “đại học đẳng cấp quốc tế” cũng không giống kỳ thi PISA hay Olympic quốc tế mà có thể ôn luyện để đạt thứ hạng cao, “đại học đẳng cấp quốc tế” là một cuộc marathon tiếp sức đường dài, một “cuộc chơi có tổng không đổi” (zero-sum game) mà bất kỳ đại học nào muốn chen chân vào Top đầu, tức là sẽ có một đại học khác bị “bật bãi” để nhường chỗ. Nói cách khác, nếu Việt Nam muốn có “đại học đẳng cấp quốc tế”, chúng ta phải đầu tư mạnh hơn, thu hút được nhiều nhân lực trình độ cao hơn và có bộ máy quản trị hiệu quả hơn chính những đại học đang nằm trong các Top 100, 200 hay 500 tại các bảng xếp hạng trên thế giới hiện nay. Vậy thì phải chăng giấc mơ “đẳng cấp quốc tế” là quá xa vời? Hay chúng ta có nên chấp nhận thua cuộc và dừng cuộc chơi?
GS. Simon Marginson từ Viện Giáo dục, Anh Quốc có lẽ là một trong những chuyên gia quốc tế đầu tiên cho Việt Nam một lời khuyên hữu ích nhất để trả lời những câu hỏi kể trên. Trong một bài phỏng vấn nhân dịp tham dự một hội thảo về xếp hạng đại học tổ chức tại Đại học Quốc Gia Hà Nội năm 2008, GS. Simon Marginson, lúc đó còn đang công tác tại Đại học Melbourne, Australia đã từng nhận định, có một “đại học đẳng cấp quốc tế” vào năm 2060 hoặc muộn hơn có lẽ là mục tiêu khả thi hơn đối với thực tế ở Việt Nam.
Tóm lại, như đã nhắc đến ở phần đầu trong bài này, hơn là một danh xưng, việc xây dựng thành công “đại học đẳng cấp quốc tế” đóng vai trò đầu tầu cho cả hệ thống giáo dục đại học và dẫn dắt các thành phần kinh tế khác ở Việt Nam nói riêng cũng như ở các nước đang phát triển nói chung là yêu cầu sống còn để có thể bắt kịp với các nước phát triển trong nền kinh tế tri thức. Tuy vậy, ở thời điểm chỉ còn 6 năm nữa là đến kỳ hạn 2020, có lẽ đã đến lúc các nhà quản lý giáo dục ở nước ta thẳng thắn và tỉnh táo xem xét lại các kế hoạch đã đặt ra cũng như các định hướng, chỉ tiêu trong tương lai, trong đó kể cả việc xem xét lùi lại mục tiêu 2020 hoặc nới lỏng mục tiêu Top 200.
Trước Việt Nam, rất nhiều nước khác cũng đã từng thất bại với các chương trình tương tự. Ví dụ như tại Hàn Quốc, sau khi thất bại với chương trình BK21 trong những năm 1990, nước này đã có những điều chỉnh nhất định và qua đó, thu được nhiều kết quả khả quan hơn với chương trình WCU từ đầu những năm 2000. Sẽ không có gì đáng xấu hổ nếu chúng ta thất bại với những nỗ lực đầu tiên trong việc xây dựng “đại học đẳng cấp quốc tế”; thậm chí, ở một chừng mực nào đó, thất bại ở cuộc đua này lại chính là thành công ở một cuộc đua khác, lớn hơn.
Phạm Hiệp
Nghiên cứu sinh, Khoa quản trị kinh doanh, Đại học Văn hoá Trung Hoa, Đài Loan
Chuyên viên, Đại học Quốc gia Hà Nội