Nguyễn Thị Thu Nga
Trường Đại học Đồng Tháp 

Mở đầu

Hiện nay, ngay cả với các nước phát triển với nền giáo dục tiên tiến cũng đang có những biến đổi to lớn trước sức ép của xu hướng toàn cầu hóa. Phong trào sinh viên du học đại học (ĐH) và xuất khẩu giáo dục ĐH đang trở thành một trào lưu khá phổ biến, đặc biệt là ở Châu Âu. Sinh viên đã được coi là một dạng “khách hàng” đặc biệt và giáo dục ĐH được coi là một “thị trường giáo dục ĐH”. Điều này đã tác động mạnh đến nền giáo dục của các nước đang phát triển, chưa có sức cạnh tranh mà tiềm lực dồi dào như Việt Nam ta. Những năm trở lại đây phong trào du học ở các nước Anh, Mỹ, Úc, Nhật Bản, Singgapo… đã lôi kéo một lượng đáng kể sinh viên Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở các quỹ học bổng của chính phủ và các tổ chức giáo dục mà phụ huynh ở Việt Nam đã đủ sức cho con em mình đi du học tự túc. Mặt khác, còn xuất hiện nhiều các tổ chức giáo dục ở các nước phát triển tham gia vào họat động tại “thị trường giáo dục ĐH” ở Việt Nam. Điều này đã là một minh chứng cho học thuyết “thế giới phẳng” của Thomas L. Friedman trong giáo dục ĐH thời đại kinh tế tri thức. Vấn đề đặt ra cho ngành giáo dục Việt Nam hiện nay là phải nhìn thẳng vào sự thật để kiểm định chất lượng giáo dục ĐH. Qua đó sớm xác định vị thế và nhanh chóng đề ra giải pháp khắc phục những tồn tại. Nếu chúng ta không tiến hành ngay thì chúng ta rất có thể “thua ngay trên sân nhà” một khi giáo dục ĐH đã trở thành một thị trường theo hướng mở.

Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ chế cơ bản và toàn diện giáo dục ĐH Việt Nam, giai đoạn 2006 – 2020. Bộ GD – ĐT và Bộ Nội vụ vừa ban hành thông tư 07/2009/TTLT – BGDĐT-BNV, ký ngày 15-04-2009, hướng dẫn quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tổ chức bộ máy, biên chế đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành GD – ĐT. Phạm vi điều chỉnh là các đơn vị công lập thuộc ngành có tư cách pháp nhân, có con dấu và có tài khoản riêng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập; đối tượng áp dụng gồm các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên, chuyên nghiệp, cao đẳng, ĐH và các cơ quan nghiên cứu, báo, tạp chí thuộc ngành GD – ĐT.

Đây được coi là văn bản có tính toàn diện, triệt để và sâu sắc nhất từ trước đến nay về đổi mới giáo dục ĐH ở Việt Nam. Theo tinh thần Nghị quyết này, vấn đề “quyền tự chủ và chịu trách nhiệm của các trường ĐH” được xem như một khâu trọng yếu về việc đổi mới giáo dục ĐH ở Việt Nam. Nhưng trên thực tế, thời gian qua vấn đề trao “quyền tự chủ gắn với trách nhiệm xã hội ở các trường ĐH” còn là một bài toán khó. Thông qua các diễn đàn cho thấy từ việc nhận thức vấn đề tự chủ ĐH đến việc đưa ra một lộ trình hướng tới tự chủ ở ĐH, vấn đề quản lý chất lượng đào tạo như thế nào khi tự chủ ĐH… còn nhiều ý kiến chưa thực sự thống nhất.

Trong bài viết này, người viết tập trung vào vai trò và trách nhiệm của giảng viên khi thực hiện tự chủ trong giáo dục ĐH gắn với trách nhiệm xã hội.

1. Giảng viên có vai trò định hƣớng cho sinh viên tính tự chủ gắn với trách nhiệm xã hội trong quá trình đào tạo

Trong hệ thống giáo dục, nếu coi giáo dục phổ thông là nền tảng thì giáo dục ĐH là yếu tố quyết định nguồn nhân lực. Đứng trước sự phát triển của nền kinh tế tri thức, mối quan hệ giữa chất lượng nguồn lực và thị trường lao động ngày càng trở lên mạnh mẽ. Các trường ĐH buộc phải gắn kết chặt chẽ với nhu cầu và những biến đổi của thị trường lao động để từ đó đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng đủ yêu cầu cho xã hội. Đây là mục tiêu, đồng thời là trách nhiệm của các trường ĐH đối với xã hội. Song đối với các trường ĐH chất lượng của nguồn lực luôn là khát vọng chinh phục trong quá trình cạnh tranh lẫn nhau. Hầu hết các hoạt động của nhà trường như đề ra quy chế hoạt động, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động của các tổ chức đoàn thể đều để nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo. Trục chính của các trường ĐH là đào tạo ra nguồn lực có chất lượng và đáp ứng được yêu cầu phù hợp cả về số lượng và chất lượng của xã hội, đào tạo ra những con người tự chủ với phẩm chất, năng lực chuyên môn và được trang bị các kĩ năng ứng xử với môi trường sống xung quanh.

Thế kỷ chúng ta đang sống là thế kỷ bùng nổ thông tin, cơ hội thành công cho những ai nắm bắt và xử lý được thông tin chính xác. Theo một nhà giáo dục học người Bỉ tính toán, “lượng thông tin trong vòng 18 tháng sẽ bằng gấp hai lần lượng trước đó cộng lại”. Chính vì điều này đã làm thay đổi hẳn một trong những chức năng của hoạt động đào tạo. Giảng viên không chỉ là người cung cấp tri thức mà còn phải là người hướng dẫn sinh viên đến với tri thức, khoa học bằng đường đi ngắn nhất, tốt nhất và luôn luôn phải có sự sáng tạo.Tư duy sáng tạo được coi là một trong những yếu tố quyết định đi đến khẳng định tự chủ. Có tri thức mà thiếu sáng tạo thì chỉ có thể học làm theo những cái có sẵn, và cho dù là bất cứ một lĩnh vực nào như khoa học, kinh doanh, hay văn hóa nghệ thuật…, không có sáng tạo đều đi đến một con đường là tri thức chết. Theo quan điểm của nhà triết học và giáo dục Hoa Kỳ John Dewey, ông cho rằng “Học sinh đến trường không phải là để tiếp thu những tri thức đã được ghi vào trong một chương trình rồi mà có lẽ không bao giờ dùng đến, nhưng chính là để giải quyết vấn đề, giải quyết các “bài toán” của nó, những thực tế mà nó gặp hằng ngày. Về phía người thầy, ông ta hành động như một người bạn có kinh nghiệm, khuyên nhủ, hướng dẫn cho trẻ biết những gì mà thầy biết về vấn đề được đặt ra”.

Như vậy, nền giáo dục thế giới đã hình thành một cơ sở để thiết lập phương pháp dạy học mới mà ta gọi đó là phương pháp nêu vấn đề và giải quyết vấn đề thay cho phương pháp truyền đạt và tiếp thu một cách thụ động các bài giảng có sẵn trong giáo trình. Nhưng trên thực tế, không phải bất cứ những vấn đề thầy đặt ra lại phù hợp với những tình huống xảy ra trong chuyên môn mà sinh viên sẽ gặp phải, và điều này có lẽ chính bản thân người thầy cũng đã gặp phải. Vì thế, buộc sinh viên phải tư duy để phát hiện ra những vấn đề, cho dù chỉ mang tính giả thiết. Qua đó, sinh viên được rèn luyện tư duy độc lập, tập nghiên cứu, sáng tạo, phát hiện và giải quyết vấn đề hơn là học thuộc bài và làm bài đầy đủ. Giờ học không chỉ đơn thuần là những giờ giảng giải cung cấp kiến thức thay vào đó là những giờ thảo luận, đối thoại, phát hiện vấn đề theo nhiều chiều và xử lý vấn đề theo các hướng khác nhau.

Trên cơ sở tôn trọng tính tự chủ, sinh viên cần chủ động nghiên cứu, phân tích, suy luận, tìm tòi, nghi ngờ và đặt lại vấn đề, tranh luận, thậm chí là phê phán, phản đối… qua đó rèn luyện tư cách độc lập, dám nghĩ, dám hành động để dần trở thành một người làm chủ trí thức thực sự. Hoạt động học của sinh viên vì thế không đóng kín trong môi trường nhà trường mà được mở rộng ra trên toàn không gian sống. Nội dung học không chỉ bao hàm những kiến thức về chính trị tư tưởng và khối kiến thức chuyên ngành mà còn bao hàm cả kiến thức về kỹ năng sống.

Trong các môi trường ĐH, sinh viên được coi như một đối tượng trưởng thành cả về trí và lực. Đứng trước các vấn đề trong hoạt động dạy và học sinh viên được quyền phát huy tinh thần tự chủ của mình. Thông qua quá trình rèn luyện tự chủ sinh viên mới có thể khẳng định khả năng độc lập, khát vọng tìm kiếm và năng lực sáng tạo mới có điều kiện nảy nở.

Nền giáo dục của chúng ta chịu ảnh hưởng nhiều của quán tính dạy học theo kiểu hàn lâm. Vai trò của người thầy dù ở cấp bậc nào cũng luôn luôn đứng ở vị trí tối cao. Thầy luôn là một khuôn mẫu mà trò không thể được phép phản biện cho dù đôi khi các giá trị mang tính thời đại đã làm cho những chân lý thế hệ có ít nhiều thay đổi. Hay cũng có khi, với tốc độ của phát triển thông tin mà những luồng thông tin và những phát hiện mới thầy chưa có điều kiện tiếp xúc và xử lý thì đây cũng là một hạn chế còn tồn tại rất lớn trong khoảng cách mà nền giáo dục nhất nhất “Tôn sư trọng đạo” của chúng ta đang mắc phải.

Vì thế, bên cạnh việc trang bị và định hướng cho sinh viên tính tự chủ trong việc tiếp thu những kiến thức khoa học về ngành, nghề theo học. Đồng thời là những hiểu biết cần thiết để giải quyết các vấn đề xã hội theo khả năng của mình hay nói cách khác là những kĩ năng sống. Trong đó, người thầy cũng phải cần điều chỉnh thái độ mang tính “dân chủ là tôn trọng người học” với sinh viên trong quá trình trao đổi, đối thoại. Một thực tế cho thấy, việc lấy ý kiến của sinh viên không những giúp cho giảng viên nhận thức được những mặt còn tồn tại trong phương pháp giảng dạy mà còn giúp cho giảng viên củng cố, hoàn thiện mình trong sự đối chiếu với nhận thức của sinh viên. Đây cũng chính là mục đích hướng tới quá trình đào tạo và tự đào tạo mà bản thân người giảng viên và sinh viên đều phải nhận thức được nhu cầu xã hội là luôn phát triển. Nếu, xã hội đặt ra những yêu cầu mà bản thân mỗi cá nhân không đáp ứng được thì đồng thời đó là quá trình tự đào thải mình trong vòng xoáy chọn lọc của xã hội.

Như vậy, trong trục đào tạo bậc ĐH giảng viên và sinh viên là hai đối tượng trực tiếp tham gia vào kiến thiết nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển xã hội. Để đáp ứng được yêu cầu xã hội đòi hỏi cả hai đối tượng phải nhận thức được sự tương tác trong quá trình hình thành những giá trị tự chủ mà ở đây vai trò của giảng viên mang tính quyết định.

2. Những điều kiện cần thiết để giảng viên phát huy tính tự chủ và chịu trách nhiệm xã hội trong đào tạo đại học.

“Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp kém. Vì thế, các bậc thánh minh chẳng ai không coi việc kén chọn kẻ sĩ, bồi dưỡng nhân tài vun trồng nguyên khí là công việc cần kíp. Bởi vì, kẻ sĩ có quan hệ trọng đại với quốc gia như thế cho nên được quí chuộng không biết nhường nào.” (Văn bia văn miếu Quốc tử giám Hà Nội – 1442)

Không phải đến bây giờ chúng ta mới chú ý đến vấn đề giáo dục ĐH mà cách đây hơn 600 năm từ thời Lê Thánh Tông (1460 – 1497), đã xem việc tạo ra những nhân tài phục vụ cho sự nghiệp ổn định và phát triển quốc gia đã được đặt ra và quan tâm sâu sắc. Nhưng hiện nay, chúng ta đã quan tâm đúng mức tới chất lượng đào tạo ĐH hay chưa? Chúng ta đã xác định được nhân tố cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo ĐH hay chưa?

Chúng ta đều biết rằng muốn nâng cao chất lượng đào tạo ĐH thì việc làm đầu tiên là phải nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ giảng dạy. Và muốn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy điều cần thiết là phải đảm bảo được những điều kiện sống và điều kiện làm việc ở mức độ nhất định để họ yên tâm và tập trung tốt nhất vào đảm trách sứ mệnh của mình. Nếu ở Mỹ, giảng viên ĐH được coi là một trong mười vị trí đầu bảng của phân công lao động xã hội và đứng ở vị trí thứ ba. Thì ở Việt Nam, giảng viên trẻ xuất thân từ trong những sinh viên đạt kết quả cao trong học tập và rèn luyện đồng thời phải gánh một trách nhiệm xã hội là học hỏi các bậc tiền bối là những “cây đa cây đề” để từng bước chuyển giao trách nhiệm đào tạo các thế hệ. Tuy nhiên, mức lương thu nhập thì không thể đảm bảo. Nếu đem ra so sánh thì lương giảng viên cũng chỉ bằng lương nhân viên ngồi trực điện thoại hay nhân viên trình độ phổ thông của doanh nghiệp. Chính vì thế, để đảm bảo nhu cầu cuộc sống ở các trung tâm thành phố buộc giảng viên phải làm thêm hay thậm chí phải “chạy sô như ca sĩ” mới có thể đảm bảo được thu nhập và chi phí cho cuộc sống. Như vậy, làm sao còn thời gian để giảng viên đầu tư vào nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ chuyên ngành cũng như tri thức ngoại ngữ… Điều này đã làm cho các trường ĐH mất đi tính hấp dẫn đối với “Hiền Tài”, và mất một lượng chất xám lớn trong quá trình đào tạo là không giữ lại được những sinh viên xuất sắc để phục vụ nhu cầu phát triển đào tạo.

Nguyên nhân của tình trạng này bắt nguồn từ đâu? Phải chăng các trường ĐH ở nước ta thiếu hẳn một khả năng tự chủ trong quá trình định lượng giữa chất lượng lao động của giảng viên với quyền lợi tương xứng?

Chúng ta đã có những diễn đàn sôi nổi về chính sách nhà giáo nhưng liệu đến khi nào chúng ta mới có một hệ thống đánh giá chất lượng của giảng viên để thông qua đó định lượng bậc thang giá trị quyền lợi mà người giảng viên được hưởng trong quá trình lao động. Hay nói đúng hơn là đội ngũ giảng viên ở hầu hết các trường ĐH công lập đều rất cần thiết một quy trình đánh giá để đo lường giữa giá trị lao động. Đây không chỉ là một động lực mà nó còn là một vấn đề tự chủ hay chính là tự chịu trách nhiệm của mỗi giảng viên trong vai trò quyết định đến chất lượng đào tạo ở bậc ĐH.

Một vấn đề nữa là hiện nay, hầu hết các trường ĐH công lập đều đào tạo theo những chương trình khung mang tính truyền thống có thể đã lưu hành trên dưới mười năm. Lượng tri thức cũng như hệ thống kỹ năng ngành nghề cho đến thời điểm hiện tại không còn phù hợp và không đáp ứng được nhu cầu xã hội. Hiện tượng phải đào tạo lại của nhiều doanh nghiệp khi sử dụng lao động đã cho thấy điều đó. Tuy nhiên, giảng viên là đối tượng tác động vào chất lượng đào tạo thì lại không có khả năng thay đối chương trình (Đặc biệt là khối các trường ĐH sư phạm). Chính vì thế, những bất cập cứ tồn tại như một quy luật “học một chuyện nhưng làm lại là một chuyên khác”. Bản thân giảng viên phải tuân thủ nội dung chương trình đào tạo và đồng thời là những quy định trong quá trình đào tạo, ngay cả khâu đánh giá chất lượng học tập của sinh viên. Điều này làm hạn chế rất lớn đến tính tự chủ và khả năng sáng tạo của giảng viên trong quá trình trang bị tri thức khoa học và hình thành những kĩ năng ngành nghề cho sinh viên. Cho nên, một nhà giáo dục học Hoa Kỳ South Seattle khi nhận xét về giáo dục ĐH ở Việt Nam cho rằng “Ở Việt Nam quản lý theo mô hình tam giác ngược. Có thể hình dung thế này, cơ quan quản lý đứng ở vị trí cạnh đáy của tam giác, còn các cơ sở phía dưới thu hẹp dần tới đỉnh nhọn. Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đối với giáo viên và những gì được dạy trong lớp học”

Kết luận

Tự chủ trong giáo dục ĐH là một vấn đề không đơn giản. Nhưng để cải cách toàn diện nền giáo dục ĐH thì đây là một việc không thể không làm. Xin lấy lời đề nghị của GS Nguyễn Văn Đạo, nguyên Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội để thay lời kết cho bài viết này. “Trong bối cảnh mô hình ĐH truyền thống đang trở nên lỗi thời và đang được thay thế bằng mô hình ĐH mới, khi nguồn lực đầu tư của Nhà nước cho giáo dục hạn hẹp, việc trao quyền tự chủ đầy đủ cho các trường ĐH là biện pháp hữu hiệu nhất để phát triển giáo dục ĐH. Việc này, chẳng khác nào “khoán 10” trước kia đã giải phóng sức sản xuất của nông dân, tạo nên cuộc cách mạng kì diệu trong nông nghiệp nước ta”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Hiến Lê – Thế hệ ngày mai: một phương pháp giáo dục mới. Nxb Trẻ, Tp Hồ CHí Minh , 1996.

2. Khôi Nguyên – 5 thách thức của giáo dục đại học Việt Nam đầu thế kỷ 21. – Sài Gòn Giải Phóng, 17/12/2000.

  1. Phạm Phụ – Về khuôn mặt mới của giáo dục đại học Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia T.P. Hồ Chí Minh, 2005.
  2. Nguyễn Văn Sơn – Trí thức giáo dục Đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa . Nxb Chính trị Quốc gia, 2002.
  3. Tatyana P Soubbotina – Không chỉ là tăng trưởng kinh tế – nhập môn về phát triển bền vững. Người dịch: Lê Kim Tiên (và những người khác) – Nxb Văn hóa Thông tin, 2005.
  4. Thái Duy Tiên – Giáo dục học hiện đại: Những nội dung cơ bản. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
  5. Giang Quân (Biên dịch) – Những phương pháp giáo dục hiệu quả trên thế giới. T.1 : Phương pháp giáo dục thiên tài của James Saide . Nxb Tư pháp, 2006.
  6. Giang Quân (Biên dịch) – Những phương pháp giáo dục hiệu quả trên thế giới. T.2 : Phương pháp giáo dục thiên tài của James Saide . Nxb Tư pháp, 2006.