GS TS Nguyễn Văn Huyên, Cố Bộ trưởng Bộ Giáo dục, và GS Tạ Quang Bửu, Cố Bộ trưởng Bộ Đại học và THCN, là hai nhân cách lớn, hai nhà khoa học tài năng và hai nhà quản lý giáo dục xuất sắc. Đã có rất nhiều tài liệu và nghiên cứu về hai Giáo sư. Ở đây tôi chỉ xin bổ sung ba mẩu chuyện nhỏ về hai vị bộ trưởng giáo dục được nhiều người khâm phục, hâm mộ và yêu quý, hai trong số các giáo sư, các bộ trưởng đã từng là cộng sự vàng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

  1. Giáo sư Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên (1905-1975)

GS Nguyễn Văn Huyên làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục từ năm 1946 cho đến năm 1975. Rất tiếc tôi chưa bao giờ được gặp được gặp hoặc ngay cả chưa được nhìn thấy GS TS Nguyễn Văn Huyên, Cố Bộ trưởng Bộ Giáo dục, khi Ông còn sống. Bởi vì cho đến hết lớp 8 tôi học ở vùng biển Hải Hậu tỉnh Nam Định, khá xa Hà Nội. Từ khi tôi vào học lớp 9 và 10 (1965-1967) Chuyên Toán Ao Khóa I của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và những năm đầu đại học tại Trường này thì Trường lại sơ tán trên huyện Đại Từ tỉnh Bắc Thái nên không có điều kiện về Hà Nội. Nhưng có lẽ lý do cơ bản mà tôi không được gặp Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên là trong những năm đó Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội của tôi do Bộ Đại học và THCN quản lý. Mặc dù chưa một lần được gặp nhưng tôi được nghe được biết về GS Nguyễn Văn Huyên qua sách báo, phim ảnh và được nghe những người đã từng cùng làm việc và phục vụ Ông kể lại. Ông đỗ Tiến sĩ ở Pháp và là nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục và nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Giáo sư là một nhà khoa học tài năng, một nhà giáo dục mẫu mực và một bộ trưởng thế hệ vàng thời Hồ Chí Minh. Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về khoa học xã hội và nhân văn. “Ông được giới chuyên môn ở Việt Nam đánh giá là người đã cùng học giả Đào Duy Anh đặt nền móng cho nghiên cứu văn hoá, văn minh Việt Nam.” Nhà sử học GS Trần Quốc Vượng đã viết: “Ông, là một nhà khoa học nhân văn lớn và hiện đại đầu tiên ở nửa đầu thế kỷ 20 này“. (Xem: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_ Huy% C3%AAn). GS TSKH Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục, cũng có nhiều bài viết và nghiên cứu về tài năng và đức độ của GS Nguyễn Văn Huyên.

Trong năm 2014 khi Viện Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên vừa mới được thành lập trên chính quê hương của GS tại làng Lai Xá, Hoài Đức, Hà Nội, tôi đã cùng các đồng nghiệp ở Văn phòng Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước đến thăm ngay trong những ngày đầu.  PGS TS Nguyễn Văn Huy, người sáng lập và chủ trì Viện Bảo tàng, đã cùng Phu nhân và con trai niềm nở đón tiếp, hướng dẫn chúng tôi thăm và cung cấp thêm nhiều thông tin mới mẻ, bổ ích về GS BT Nguyễn Văn Huyên. PGS Nguyễn Văn Huy nguyên là Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, hiện là Giám đốc chuyên môn của Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam và  Giám đốc, kiêm chủ sở hữu của bảo tàng tư nhân mang tên Nguyễn Văn Huyên. Bộ trưởng có một người con rể nổi tiếng mà tôi rất quen biết. Đó là NGND GS TS Nguyễn Lân Dũng, Đại biểu Quốc hội nhiều khóa liền, GS Sinh học Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội (nay là ĐHQGHN). Vợ Anh, con gái của GS Nguyễn Văn Huyên và Bà Vi Kim Ngọc, là Thầy thuốc Nhân dân, Đại tá PGS TS Nguyễn Kim Nữ Hiếu, nguyên là PGĐ Bệnh viện TW Quân đội 108.

Câu chuyện 1: Giáo sư Bộ trưởng và chai rượu vang tình người

Vào một dịp đón tết nguyên đán của Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ GD-ĐT, cách đây chừng hơn 10 năm, bác Nguyễn Ngọc Chảo đã kể một câu chuyện nhỏ, một kỷ niệm về Cố GS BT Nguyễn Văn Huyên. Bác Chảo nguyên là Thư ký của Bộ trưởng kiêm Phó Chánh văn phòng Bộ Giáo dục phụ trách hợp tác quốc tế. Bác sống rất thọ và đã ra đi ở tuổi xấp xỉ 100. Tôi nhớ mãi câu chuyện cảm động này.

Trong một chuyến công tác nước ngoài, bác Chảo được tháp tùng và phục vụ GS BT Nguyễn Văn Huyên. Tối hôm đó sau khi công việc kết thúc, được tự do, chỉ có hai thầy trò ăn cơm tối với nhau trong khách sạn. Bộ trưởng bảo bác Chảo: Hôm nay là một ngày làm việc vất vả và kết quả, hai chúng ta nên tự thưởng cho mình một chai rượu vang đỏ. Bác Chảo đáp: Thưa Bộ trưởng, hai thầy trò mình đều uống rượu ít, cùng lắm chỉ hết nửa chai, bỏ lại nửa chai lãng phí. Bộ trưởng ôn tồn nói: Không sao! Chú cứ đậy nút chai để nửa còn lại trên bàn, lát nữa xong việc người phục vụ họ cũng sẽ được uống một ly rượu ngon, sau một ngày làm việc cũng vất vả như mình .

Nghe xong câu chuyện tôi lặng người. Thật là nhân văn! Văn hóa nó cụ thể, thầm lặng, tự nhiên, sâu thẳm và thấm vào trong máu là như vậy. Tôi phục! Tôi nhớ mãi câu chuyện về tấm lòng, về đạo đức này và tự hỏi có bao nhiêu người nghĩ được, lặng lẽ làm được từ việc nhỏ như vậy? Riêng tôi, mặc dù đã cố gắng nhiều để tự sửa mình, nhưng tự thấy mình còn xa, xa lắm mới theo kịp Giáo sư. Sống có văn hóa là phải biết quan tâm đến những người xung quanh, phải biết chia sẻ, chia sẻ cả niềm vui lẫn nỗi buồn, như tinh thần câu danh ngôn: “Khi chia sẻ, niềm vui tăng lên; khi chia sẻ, nỗi buồn vợi đi.” Xã hội ngày nay vẫn còn nhiều người tốt, người tốt vẫn chiếm số đông. Nhưng những biểu hiện vô cảm, ích kỷ, vụ lợi, thiếu trách nhiệm với con người, với thiên nhiên, môi trường, …, nói cho gọn lại là thiếu văn hóa, thiếu đạo đức, ở một bộ phận khiến chúng ta không khỏi quan ngại.

  1. Giáo sư Bộ trưởng Tạ Quang Bửu (1910-1986)

GS Tạ Quang Bửu làm Bộ trưởng Bộ ĐH&THCN từ năm 1965 đến năm 1976. Với GS Bửu tôi có dịp được gặp gỡ và nhìn thấy nhiều hơn. Vì Ông phụ trách Trường Đại học Tổng hợp của tôi và đồng thời vì Ông là một nhà Toán học rất quan tâm đến thế hệ trẻ. GS BT Tạ Quang Bửu là một nhà khoa học, một nhà Toán học tài năng, một nhà quản lý nói chung, quản lý giáo dục nói riêng, xuất sắc. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu năm 1996 về KH&CN. “Ông được coi là nhà khoa học uyên bác trên nhiều lĩnh vực, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội. Về ngôn ngữ, ông thành thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, sử dụng được tiếng Đức, đọc hiểu tiếng Nga, tiếng Hán, tiếng Hi Lạp cổ, tiếng Latinh.”(Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư mở, Wikipedia). Đã có nhiều bài viết, nhiều kỷ niệm sâu sắc về GS Tạ Quang Bửu, trong đó có những tác giả là các nhà toán học, vật lý, cơ học, …, như GS Hoàng Tụy, GS Nguyễn Văn Hiệu, GS Phan Đình Diệu, GS Nguyễn Văn Đạo, GS Hoàng Xuân Sính, GS Hà Huy Khoái, GS Ngô Việt Trung, GS Phạm Ngọc Ánh, …

Điều làm Ông nổi bật là tầm nhìn chiến lược về khoa học và giáo dục có tính đa ngành, liên ngành và Ông dám bảo vệ chân lý, dám bảo lãnh, ủng hộ những nhà khoa học tài năng nhưng lận đận, nhưng gặp khó khăn về hoàn cảnh riêng. Sau khi Ông mất, tôi và các bạn vẫn đến thắp hương để tưởng nhớ Ông và thăm Phu nhân của Ông, Bà Hoàng Kim Oanh, tại nhà mới ở Liễu Giai. Anh Nguyễn Tiến Luận và tôi còn được gặp và cùng chơi quần vợt với con trai của GS là anh Tạ Quang Nghĩa. Sau đây là hai mẩu chuyện nhỏ về Ông.

Câu chuyện 2: Một bài giảng ấn tượng của Giáo sư Bộ trưởng

Năm 1974, theo lời mời của GS Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Bộ ĐH và THCN, bốn nhà toán học nổi tiếng của Pháp đã sang Việt Nam đọc một chuỗi bài giảng để bắt đầu một lý thuyết toán học mới với nhiều hứa hẹn về mặt lý thuyết cũng như ứng dụng, đó là Lý thuyết Kỳ dị (Singularity Theory). Bốn nhà toán học đó là GS. B. Malgrange, GS. F. Phạm, GS. Lê Dũng Tráng và GS. A. Chenciner. Hai người đầu khi đó đã là những nhà toán học nổi tiếng của Pháp và thế giới. Họ đã có những bài báo khoa học và những cuốn sách chuyên khảo được giới chuyên môn trên thế giới đánh giá cao và được dịch cả sang tiếng Nga. Hai người sau là những nhà toán học trẻ nhưng đầy hứa hẹn. GS Phạm và GS Tráng nói được rất ít tiếng Việt, chủ yếu dùng tiếng Pháp. Hai giáo sư còn lại là người Pháp và hoàn toàn dùng tiếng Pháp. Tôi còn nhớ rõ lúc đó trời rất nóng, trong các giảng đường của Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, các GS vẫn giảng bài say sưa, mồ hôi ra ướt sũng áo. Ngày ấy chưa có máy điều hòa nhiệt độ, may lắm có cái quạt máy hoặc quạt tay.

Khi đó Lý thuyết Kỳ dị còn đang là một ngành toán học hoàn toàn mới mẻ. Trên thế giới còn ít nhà nghiên cứu. Sách vở, tài liệu về lĩnh vực này cũng chưa có bao nhiêu. Để giới thiệu cho đông đảo bạn đọc Việt Nam hiểu được ý tưởng cơ bản của lý thuyết mới và để chuẩn bị cho chuỗi bài giảng này, GS Tạ Quang Bửu đã viết một bài báo tổng quan, đại chúng nhan đề “Tai biến và Phát triển” đăng trên Báo Nhân Dân.  Ông Tạ Quang Đạm là em trai GS Tạ Quang Bửu. Lúc ấy Ông Đạm đang làm việc và đóng vai trò quan trọng ở Tòa soạn Báo Nhân Dân. Sự trừu tượng của bài báo và sự “lạ tai” của từ “tai biến” đã khiến cho GS Bửu và em trai GS bị “thắc mắc, chất vấn”. Năm ngoái tôi được TS Tạ Quang Ngọc, nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy sản, con trai của nhà báo, nhà trí thức lão thành Tạ Quang Đạm, kể lại như vậy. Tôi ít có dịp được gần gũi với TS Tạ Quang Ngọc, nhưng khi gặp anh dễ mến, được biết anh là một nhà khoa học có uy tín, đỗ TS từ Bulgary về, một nhà quản lý có năng lực và có năng khiếu ngoại ngữ. Đối với các nhà toán học làm gần lĩnh vực Lý thuyết Kỳ dị thì cặp từ “tai biến/catastrophe” và “phát triển/ development” thuận tai. Nhưng với những người ngoài ngành và người dân thường thì khó hiểu, nhất là từ “tai biến”.

Nhờ tầm nhìn và sự khởi đầu của GS Tạ Quang Bửu, nhờ sự hướng dẫn chuyên môn trực tiếp của GS TSKH F. Phạm, sự hỗ trợ nhiệt tình của GS TSKH Lê Dũng Tráng và nhờ sự giúp đỡ tận tình của các nhà toán học Pháp, Nhật, Đức, Nga, …, đến nay chúng ta đã có một nhóm nghiên cứu mạnh, có uy tín trong nước và quốc tế, bao gồm GS TSKH Nguyễn Tự Cường (Viện Toán học), PGS TSKH Hà Huy Vui (Viện Toán học), TS Nguyễn Tiến Đại (Viện Toán học), PGS TS Lê Văn Thành (Viện Toán học, đã mất), PGS TSKH Nguyễn Hữu Đức (Hiệu trưởng Trường ĐH Đà Lạt,đã mất), …

Đã 41 năm trôi qua, nhưng tôi vẫn còn nhớ một kỷ niệm vui về GS. Tạ Quang Bửu: Câu chuyện là thế này: GS BT Tạ Quang Bửu đích thân và trực tiếp tham gia giảng dạy và giúp chúng tôi chuẩn bị các kiến thức cơ sở để nghe chuỗi bài giảng về Lý thuyết Kỳ dị, vì đây là lĩnh vực mới và liên quan đến nhiều kiến thức đa ngành như giải tích, đại số, lý thuyết số, hình học vi phân, tô pô vi phân, vật lý lý thuyết, … GS Lê Dũng Tráng, khi đó còn rất trẻ và rất hăng hái ủng hộ Việt Nam, cũng tham gia cùng GS Tạ Quang Bửu giảng bài giúp chúng tôi chuẩn bị kiến thức cơ sở. GS Malgrange và GS Phạm là hai giảng viên chính. GS Tráng và GS Chenciner là hai thanh niên giảng phối hợp. Một hôm, tại Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, đang dạy chúng tôi về đa tạp khả vi (differentiable manifolds), nhìn xuống thấy chúng tôi có vẻ không hiểu, GS Tạ Quang Bửu hỏi: “Các anh các chị có hiểu không?” Chúng tôi trả lời ấp úng: “Thưa thầy chúng em chưa hiểu mấy”. GS cười nói ngay: “Thế là các anh các chị chưa hiểu rồi!” Và ông nói tiếp: “Không sao! Đây là một khái niệm, một lý thuyết mới, khó hiểu. Vả lại chính tôi đang giảng bài này cũng chưa hiểu kia mà”. Rồi Ông cười vang và cả lớp chúng tôi cũng cười theo. GS Bửu có điệu cười rất riêng, rất vang, tự tin và sảng khoái.

Qua câu chuyện nhỏ này ta thấy những người thực tài thường rất khiêm tốn. Mặt khác đây không chỉ là câu chuyện vui. GS Tạ Quang Bửu không chỉ nói cho vui. Mãi sau này, sau một phần tư thế kỷ, cho đến cuối thế kỷ XX sang đầu thế kỷ XXI, khi đọc UNESCO tôi mới hiểu thêm về tầm nhìn Tạ Quang Bửu. Theo UNESCO và Báo cáo của Hội đồng Delors năm 1996 về giáo dục toàn cầu trong thế kỷ XXI, nhiều nội hàm của chữ “thầy giáo/teacher” đã được thay bằng “người hướng dẫn/tutor”.  Một khái niệm hiện đại hơn, mở hơn, “động” hơn. “Giáo viên phải xác lập mối quan hệ mới với người học, chuyển dịch từ vai trò “người đơn ca” sang vai trò “người đệm đàn” và chuyển dịch từ nhấn mạnh việc truyền bá thông tin sang việc giúp đỡ người học tìm tòi, sắp xếp và vận dụng hiệu quả kiến thức, hướng dẫn họ chứ không đúc họ theo khuôn”[a, b]. Thầy không chỉ dạy cho trò cái mình biết mà ngoài ra còn hướng dẫn, khêu gợi cho trò cái mình chưa hoàn toàn hiểu, nhưng linh cảm thấy nó sẽ trở nên quan trọng trong một tương lai gần. Thầy và trò, anh và em có thể cùng nhau khám phá những cái mới, lĩnh vực khoa học mới, thám hiểm chân trời mới, bỡ ngỡ đấy, rủi ro đấy, nhưng hứa hẹn những phát hiện, phát minh mới thú vị và có giá trị về lý thuyết lẫn ứng dụng. Quan điểm giáo dục mới này cũng còn bị một số người phê phán và chưa tán thành. Điều đó cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng ít nhất quan điểm mới này có lợi cho học sinh phổ thông lớp trên, cho sinh viên đại học, học viên cao học, nghiên cứu sinh và những người tự học, tự nghiên cứu là chính. Đối với học sinh các lớp dưới, đương nhiên, việc dạy và học một cách bài bản, chuẩn mực và hệ thống là cần thiết. Nói như vậy không có nghĩa ở lứa tuổi này chưa cần gợi mở và khuyến khích tìm tòi, sáng tạo cùng với bè bạn và thầy cô.

Như chúng ta đều biết: Ngày nay các miếng đất khoa học màu mỡ đã bị khai thác cạn kiệt. (Các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng tương tự.) Muốn phát minh và tìm ra cái mới con người ta chỉ có thể hy vọng vào những đề tài, những vấn đề nằm trên biên chung, nơi hội tụ và giao thoa của nhiều lĩnh vực khoa học. Tất nhiên để giải quyết những đa bài toán như vậy rất khó, vô cùng khó, vì cần đến rất nhiều khái niệm, lý thuyết và công cụ đa ngành.

Xin lấy một ví dụ từ ngay chính bản thân mình. Trong những năm vừa qua, khi nghe GS Ngô Bảo Châu giảng bài và nói chuyện về toán, tôi hiểu được rất ít, mặc dù đã cố gắng đọc và chuẩn bị kỹ các kiến thức cơ sở. Tôi đã dành nhiều thời gian để tìm hiều và giới thiệu công trình của GS G. Faltings (CHLB Đức) được hoàn thành năm 1983 và được trao Giải thưởng Fields năm 1984 về chứng minh Giả thuyết Mordell, sau 61 năm tồn tại. Tôi cũng đã cùng anh Đỗ Trung Hậu dịch cuốn sách của A. D. Aczel từ tiếng Anh sang tiếng Việt, nói về quá trình GS A. Wiles (Vương quốc Anh) giải quyết xong siêu Bài toán Fermat vào năm 1994, sau 357 năm tồn tại (cho đến nay cuốn sách dịch này đã được tái bản 6 lần). Trong quá trình nhiều năm khi làm những công việc này, một cách tình cờ, tôi đã chuẩn bị và nghĩ rằng mình sẽ hiểu được khi nghe GS Ngô Bảo Châu giảng bài hoặc nói chuyện, trước hoặc sau khi GS nhận Giải thưởng Fields năm 2010. Nhưng tôi đã nhầm. Tôi vẫn không thể hiểu được chứng minh của GS Ngô Bảo Châu đối với Bổ đề Cơ bản Langlands (đã tồn tại 30 năm), vì nó nằm trên giao của nhiều lĩnh vực của toán học và vật lý hiện đại.

Câu chuyện 3: Giáo sư Bộ trưởng 64 tuổi vẫn bơi tốt

Chúng ta đã biết GS Tạ Quang Bửu ngoài việc làm toán và lãnh đạo khoa học, giáo dục, quốc phòng, ngoại giao ra còn chơi thể thao tốt và truyền đạt kinh nghiệm luyện tập cho học sinh, sinh viên đánh bóng bàn theo kiểu Barma (đương kim vô địch thế giới về bóng bàn, người Hungary), tập điền kinh theo phương pháp khoa học nhất, bơi sải (crawl)… (xem: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A1_ Quang_B%E1%BB%ADu ). Chúng tôi còn được nghe kể lại, khi còn trẻ còn là sinh viên du học ở Pháp, Ông đã từng tham dự cả những cuộc thi bơi đường dài, vượt eo biển Manche nối giữa Pháp và Anh. Như vậy bản thân Ông, dù với tư cách một sinh viên, một người làm toán, một giáo sư hay một bộ trưởng giáo dục, chính là một ví dụ điển hình minh họa cho giáo dục toàn diện.

Sau đây là một câu chuyện nhỏ mà tôi được chứng kiến trực tiếp. Khi đó vào khoảng năm 1974 tôi vừa mới ra trường và được mời tham dự một cuộc thi bơi của sinh viên Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, được tổ chức tại bể bơi Thái Hà (Hà Nội). Ban Tổ chức đã giới thiệu và mời GS Tạ Quang Bửu, nguyên Bộ trưởng Bộ ĐH-THCN, bơi đầu tiên để khai mạc cuộc thi. Từ trên bục cao GS Tạ Quang Bửu đã nhảy xuống bể bơi và bơi đi với động tác nhanh nhẹn như ngày xưa GS đã từng bơi và dự thi. Nhưng năm đó đã 64 tuổi, sau một thời gian dài cống hiến cho toán học, khoa học và quản lý, sức GS không còn được như trước nữa. Vì thế mặc dù GS đã cố gắng thu cuộn người lại để lao xuống nước như con thoi, như thời trai trẻ, nhưng lực bất tòng tâm, bụng của Gs đập hơi mạnh khi tiếp xúc với mặt nước. Lúc đó mọi người hơi lo ngại. Các đồng chí bảo vệ của bể bơi lập tức lao xuống để đỡ GS, nhưng cũng may, GS không sao cả, vẫn bình tĩnh bơi và tươi cười với mọi người như không có gì xảy ra.

Tái bút: Vì những tư liệu mà Tác giả đã sử dụng để viết nên ba mẩu chuyện nhỏ này chủ yếu được lục tìm từ trí nhớ của mình. Mà trí nhớ của tôi vốn đã không tốt. Sau gần 40 năm đã trôi qua, chắc chắn sẽ có những phần trong bài viết này không thật chính xác. Tác giả mong được Quý vị và bạn đọc lượng thứ và chỉ giáo cho. Xin cám ơn!

Tài liệu tham khảo

[a] Jacques Delors: Learning: The Treasure Within, Report to UNESCO of the International Commission on Education for the Twenty-first Century, UNESCO Publishing 1998, ISBN 9231034707, 9789231034701. Xem bản dịch tiếng Việt của Trịnh Đức Thắng, do Vũ Văn Tảo hiệu đính: “Học tập: Một kho báu tiềm ẩn”, Nhà Xuất bản GDVN, Hà Nội – 2002.

[b] Trần Văn Nhung: Về Giáo dục và Đào tạo: Đôi điều ghi lại, Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội – 2011 (578 trang, khổ 14,5 x 20,5 cm).

Hà Nội, 18/6/2015.

Trần Văn Nhung